Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2012

NHÓM MÁU CỦA TÔI- 2

Nếu cuối tháng 8 năm 1971, tôi đã rời nhà ở Cần Thơ lên Bảo Lộc học để có thể thành một kiễm lâm được thì 37 năm sau vào đầu tháng 3 năm 2008, tôi cũng đã rời gia đình ở Rạch Giá lên Sài Gòn để dạy và có thể thành một thạc sĩ được chứ? “Tại sao không nhỉ?”
      Ngay hôm sau khi đến Sài Gòn, tôi đi dạy ngay cho một tổ chức nhỏ chất lượng cao, học phí cũng cao- 6thang.com-, nhưng thù lao của tôi không cao lắm. Các học viên phải qua kỳ phỏng vấn sát hạch, đóng học phí trước và được xếp vào lớp 8 người. Trong những người tôi đã phỏng vấn, có một tay bằng tuổi tôi, cũng dạy Anh văn tại nhà như tôi nhưng chưa hề có một chứng nhận hoặc bằng cấp gì cả. Tôi âm thầm so sánh tôi với y. Tôi thầm khen con đường mình trải qua. Cái con đường đã dẩn tôi từ một tỉnh lẻ lên Sài Gòn để dạy và để học. Trong các cuộc sát hạch, có học viên trả lời những của tôi khá lưu loát và họ khiến tôi đã tự hỏi,
“Nói tiếng Anh như thế mà còn phải bỏ tiền ra đi học à? Cái tính tự học của họ đâu rồi? Lòng tự chủ họ đâu rồi?”
“Thế người ta hơn nhau chổ nào: điểm xuất phát, điều kiện hiện tại hay khả năng tự học- do it yourself-?.
Giống như hồi ở Bảo Lộc, khi ở Sài Gòn, tôi cũng đã học được nhiều thứ mà không có một cuốn sách nào miêu tả được, một tác giả nào trải nghệm được để viết ra. Có không ít người từ các tỉnh về Thành phố HCM, họ cũng vất vả rồi cũng hoặc quang vinh hoặc lang thang ở trên đó. Trong một buổi tiệc, tôi gặp được một thầy giáo, đến khi ấy dạy được 24 năm sau khi tốt nghiệp ĐH ngoại ngữ. Ngay sau khi nghe hắn nói vài câu đầu tiên, tôi thắm thía cái công tôi đã rèn luyện của tôi. Tôi nhận ngay ra cái câu, “Có công mài sắt, có ngày nên kim.” Sau này tôi cũng có dịp tự so sánh mình khi trò chuyện với một cô giáo từ Đà Lạt 20 năm trước đây về Sài Gòn, có thạc sĩ, dạy tại Hội Việt Mỹ. May mắn thay tôi được giới thiệu với một giáo viên người Mỹ, Gary. Hắn thích tôi ngay trong buổi đầu gặp nhau. Ba tuần liền sau đó hắn gọi tôi đi nhậu. Tôi nhả nhặn từ chối hắn như tôi đã từng làm trên Bảo Lộc khi có ai rủ tôi đi uống cà phê vậy. Sau khi mặt đối mặt, ly cụng ly, lòng mở lòng, cấu đối câu đáp, lần nhậu này tới lần nhậu khác, chúng tôi thành bạn của nhau. Một hôm hắn cần mua một vài món cho máy vi tính của hắn, tôi đưa điện thoại cho hắn nói với con tôi- Canon. Để thử khả năng dạy con của tôi, hắn đã hỏi chuyện con tôi một cách rất bình thường. Mỉm cười một cách rất hài lòng, hắn thố lộ với tôi:
“Tớ từng nghe nhiều giáo viên khoe họ dạy con họ hay lắm. Nhưng họ toàn nói ngoa. Thằng Canon nói khá lắm. A tree is known by its fruit. A father is known by his father. Tôi tin ông rồi đấy.”
Gary được tôi mời dự tiệc tất niên của lớp Anh Văn thương mại tại một nhà hàng khá sang trọng. Hắn rất vui lòng với cách chúng tôi tiếp đải hắn. Còn học trò của tôi trò chuyện, thưởng thức cái cuộc tiếp xúc đó rất nhiều đến đổi ba đứa trở nên khá thân mật với Gary. Hắn cũng mời tôi dự tiệc với học trò của hắn. Tôi thậm chí theo hắn đến tiệc Ngày Nhà Giáo và tân niên của hai trung tâm hắn dạy với tư cách là bạn thân. Tôi chia với hắn lớp thiếu nhi hắn dạy free. Tôi cũng chia với hắn cái Câu lạc bộ nói tiếng Anh trong bệnh viện Bình Dân. Sau này, tôi và hắn cùng nhau dạy 4 nhóm nhỏ tại nhà hắn. Hắn trả tôi một mức lương khá cao: $ 10 một giờ.
       Tôi đã khiến cho bà trưởng phòng đào tạo của trung tâm Anpha rất hài lòng với cái cách tôi đối đáp và tôi được giao dạy 3 lớp và một câu lạc bộ nói tiếng Anh. Tôi gây cho bà hiệu trưởng của một trung tâm quốc tế một ấn tượng tốt đẹp sau cuộc phỏng vấn với câu phát biểu: “Anything is possible.” Tôi sau đó lần lượt vượt qua nhiều cuộc phỏng vấn khác và thậm chí một kỳ thi Proficiency tại một trung tâm. Tôi đã được sắp thứ 8 trên tổng cộng 180 giáo viên đến đấy ứng thí. Tuổi của tôi hơi “cứng” nên tay trưởng phòng đào tạo phải gọi tôi bằng chú. Tại trung tâm tài chính của Prudential, tôi được phỏng vấn cho cái chức vụ “Training Manager”. Tôi nói chuyện với tay giám đốc như một người bạn củ. Tôi lý luận,
“Nếu tôi từ ngành Thuỷ Lâm, dốt nát tiếng Anh mà tôi thành một giáo viên Anh Văn được, thì tôi cũng có thể thành một training manager được thôi.”
Thông qua một ngưòi mới quen, tôi được mời đến trung tâm ngoại ngữ của ĐH Ngoại Thương và sau một tiết dạy thử, tôi được giao một lớp Anh Văn Ngoại Thương trung cấp. Tôi đã gọi điện thẳng tới Trung Tâm Ngoại ngữ của ĐH Ngân Hàng và tôi củng được mời dạy lớp trung cấp. Tôi cũng đã rất tự tin đến phỏng vấn để nhận cái ghế “Phó Giám Đốc” một hảng may xuất khẩu của Hàn Quốc. Tôi cũng rất tự tin khi nộp hồ sơ cho cái vị trí “Phó Hiệu Trưởng trường Du Lịch T.p Hồ Chí Minh. Tôi viết mail và cẩn thận điền vào form xin việc “Dạy tiếng Việt cho trẻ con Tây” tại RMIT. Tôi đã nột hồ sơ qua một Đ.H Tài Chính Kế Toán bên Campuchia. Tôi đã tiếp xúc với Học Viện Bóng Đá Hoàng Anh Gia Lai. Nếu tôi đính kèm vào đây danh sách các việc tôi đã nộp đơn, nhiều học trò và thầy cô ở trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc chắc phải lắc đầu khoát tay. Ngày ngày tôi tìm việc trên các trang web và gởi ngay C.V của tôi đến. Nếu tôi đã từng mài từng bài toán khó hồi năm 1974 một mình mỗi sáng sớm lạnh lẻo trên Bảo Lộc thì vào năm 2008, 34 năm sau tôi có thể hằng sáng sớm chọn từng địa chỉ để xin việc. Một trong những sáng sớm ấy, tôi được một công việc bán thời gian mà thật ít ai trong trường mình nghỉ ra: “Trợ giảng cho Trường Bóng Đá Arsenal- Vinamilk”. Trong lúc làm việc, Tôi đã được cựu danh thủ Phạm Huỳnh Tam Lang- hiệu phó- mời vào đội bóng đá lảo tướng Thành Phố HCM khi biết tôi từng là thủ môn của Tỉnh Kiên Giang. Và tôi cũng được giám đốc trung tâm ngoại ngữ ĐH Ngân Hàng mời dạy lâu dài.
    Tôi chạy Vespa đi dạy như một tay chuyên nghiệp trên Sài Gòn vậy, từ chổ tôi ở trọ- Khách Sạn Công Đoàn- quận 1, đến quận 12, quận 7, 8 và đến Bình Thạnh rồi đến tận Thủ Đức. Ngay nơi tôi ở có một quán cơm tạm được nhưng trên đường đi dạy, tôi có thể ghé lại bất cứ chỗ nào, ăn bất cứ cái gì để lót dạ. Trong tháng ít việc, để tiết kiệm, tôi đã nấu ăn. Thức ăn trong tháng đó chỉ gồm có một chai dầu ăn với lọ muối tiêu, chao và dưa leo. Tôi đã từng quen không ăn sáng trên Bảo Lộc cho nên tôi cũng thản nhiên đi dạy khi đói meo mỗi buổi sáng. Tôi dạy và học như cái cách của một sinh viên trên Sài Gòn thường phải làm. Sau nửa năm tôi ở Sài Gòn, thằng con tôi lên học Đại Học. Hai cha con tôi ở chung. Tôi kiếm được một nghề dịch báo và hai cha con tôi làm chung công việc. Nó ở nhà nấu cơm, tôi, trên đường đi dạy về, mua đồ ăn. Chúng tôi hiểu nhau nhiều hơn. Chúng tôi có nhiều điểm chung hơn và chúng tôi có chung một mục tiêu: một tương lai sáng lạng hơn. Con trai tôi âm thầm và trực tiếp học được một số tính cách của tôi. Một hôm tôi có một bài dịch khó, về ngành xây dựng. Tôi nhắn tin cho hắn lúc 3:30 xong tôi phải đi dạy suốt đến 9:30 mới xong. Khi tôi về, nó đã tự mầy mò dịch được gần hết. Tôi chỉ duyệt lại để bài dịch được gởi đi đúng hẹn. Khi tôi có việc mới ở đâu, nó tỏ ra rất quan tâm. Nhờ có những ngày tháng sống chung đó, cha con gần nhau hơn. 
Tôi phải lo đến việc kiếm một chổ ở riêng để mở các lớp riêng, để quảng cáo để phát triển và để có nhiều tự do hơn. Theo lời giới thiệu, tôi đến một địa chỉ ở Phú Nhuận. Người chủ nhà tiếp tôi ân cần và còn mời tôi đi uống cà phê. Tôi rất tiếc căn nhà quá nhỏ với 2 cha con tôi và lớp riêng tôi sẽ dạy tại nhà. Nhưng tôi bộc bạch, tâm sự và tôi tỏ ra lạc quan trẻ trung hơn bao giờ hết. Người chủ nhà, sau một khoản thời gian ngắn ngủi, đã quý mến tôi và người ấy đã giúp tôi vượt qua vài khó khăn nhất định. Tôi một mực giử khí tiết còn người ấy cũng rất hết lòng giúp tôi, mong tôi sớm ổn định và luôn chúc tôi thành công. Người ấy thường nhắc nhở tôi bình tâm, suy xét kỹ lưởng khi biết rằng tôi xích mích với vợ tôi và cả hai đòi ly dị nhau nhiều lần. Tôi chưa hề nghỉ đến tình cảnh như vậy. Tôi đau đầu lo dạy, lo học để lấy TOEFL 550 điểm cho đầu vào thạc sĩ, lo cho chi phí cả gia đình và dĩ nhiên phải lo cho ngân khoản học của tôi sau này.
     Tôi có lúc như già đi, có khi như trẻ lại. Có lúc tôi thật phấn chấn nhưng cũng có khi buồn thui thủi. Có khi suốt tuần, tôi dạy ngày 12 tiết, tối về còn phải dịch bài suốt 3 giờ đồng hồ. Tôi có khi nhậu thâu đêm với Gary. Chuyện đời tôi như vào một chương mới còn chuyện gia đình tôi như vào một giai đoạn rất đặc biệt. Sau 14 tháng dạy trên Sài Gòn, tôi đã trở về nhà làm lại công việc trước đây- dạy Anh Văn tại nhà. Nhờ đâu tôi làm được những điều kỳ thú ấy nếu không phải là nhờ vào “Nhóm Máu NLS của tôi?”     

NHÓM MÁU CỦA TÔI

Loài người có nhóm máu A, B,O hoặc A-B. Tôi đến giờ vẩn chưa có dịp đi xét ngiệm xem mình có nhóm máu nào nhưng tôi biết rất rỏ ràng rằng tôi có một nhóm máu phụ mà các bác sĩ không hề hay biết. Đó là nhóm máu: NLSBL. Đây là loại máu giúp tôi làm được nhiều điều khá ngoạn mục mà người bình thường phải lắc đầu bó tay.
     Điều đầu tiên ngay sau khi ra trường tôi đã làm đó là đưa thằng Hải Bầu về Cần Thơ.
Tôi chứa nó ở tại nhà và tôi dạy nó sao cho nó có thể thi lại được bằng tú tài. Cả lớp tin là tôi làm được và bản thân Hải cũng đã rất tin tôi. Trước hết tôi bắt hắn dậy 3 giờ sáng để học. Hàng ngày, tôi bắt hắn làm 20 bài toán và lý. Tôi tự tay pha cà phê cho hắn nhưng tôi quên bẵng đi việc cho hắn vài điếu thuốc. Tôi giải thích bài, dạy hắn những nguyên lý, công thức một cách dể hiểu, ấn tượng. Ngày qua ngày, Hải tiến bộ rỏ ràng và sau 7 tuần lễ hắn trở về nhà, Dốc Mơ- Gia Kiệm. Hắn đã thi đậu khá dể dàng. Thầy Minh Còi hoặc thầy Hy Lèo không thể hiểu nổi làm sao tôi có thể làm được cái điều khó tin ấy. Nhóm máu NLSBL đã giúp tôi đấy thôi.
      Điều thứ hai mà những người cùng trang lứa với tôi khó lòng làm được. Đó là trong những tối Vân qua thăm tôi trong những ngày nghỉ hè năm lớp 11- 1973, tôi chỉ trò chuyện với nàng khoảng nửa tiếng, không thậm chí nắm tay, không cợt nhả, không hẹn hò đi chơi ở đâu cả, không một lời trăng hoa ong bướm gì hết. Nàng cười nhẹ khi chào tôi ra về, nhưng trong lòng nàng, tôi tự nghỉ, thể nào nàng cũng mếu máo tự hỏi:
- Không biết ảnh có cái loại máu gì mà sao thấy ảnh nguội lạnh với mình quá? Nhà không có ai, ảnh cũng không có gì để ngại ngùng. Còn ta thì chỉ biết ngồi yên chờ đợi ảnh.
Vân đã không biết rằng tôi nhờ nhóm máu NLSBL mới làm được như vậy đấy.
Khi đón nàng đến thăm hay lúc tiển nàng ra về, tôi đều tự dặn lòng:
- Ta chỉ là một thằng học trò, học hành chưa đến đâu. Yêu thương rồi cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Nắm tay hay hôn lên má nàng hoặc ôm nàng vào lòng thì chẳng có gì khó, nhưng không tiến tới những chuyện gì gì đó xa hơn thế mới thật là quá khó.
      Điều thứ ba tôi đã làm còn khiến tôi ngạc nhiên đến tận ngày nay. Từ ngay ngày nghỉ hè đến đầu năm lớp 12, tôi phải dự một lớp luyện thi. Tôi làm bài tập suốt ngày. Thầy Trí “Ba Túi” dạy toán khen tôi đáo để cái cách tôi ghi chép, vẽ hình học hoặc giải bài tập. Khóa học kết thúc vào đầu tháng 10. Trường khai giảng vào giửa tháng 9. Tôi, người chưa hề nghỉ một giờ học nào trong 2 năm lớp 10 và 11, đã quyết định lên trể nửa tháng. Dỉ nhiên, cả nhóm chúng tôi đã lên học đúng ngày khai giảng. Không phải vì cái nhóm máu NLSBL lì lợm chịu chơi, ai mà dám vắng mặt 2 tuần như thế được? Phải thế không thưa thầy Hanh Chột? – Thưa thầy! xin thầy tha tội cho em. Tụi em cứ quen gọi thầy như thế rồi. Đúng là cái thằng có nhóm máu NLSBL, phải không Thầy?
      Nhắc đến thầy Hanh, tôi nhớ ngay đến việc bị thầy cắt tóc 2 lần và tôi đã để yên như vậy đúng hai lần. Cà chớn ư? Ngoan cố ư? Lập dị chăng? Tôi không biết phải giải bày thế nào cho chính xác nhưng có lẻ cái nhóm máu kỳ quái ấy đã khiến tôi …hơi ngông?   
       Điều thứ tư tôi đã làm quá tốt là thi đậu thủ khoa vào Đ.H Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức- Viện Đại Học Bách Khoa. Tôi, một tuần 2 ngày, phải học các môn khoa học tự nhiên tại trường Bách Khoa và ngồi chung giảng đường với s.v ĐH Nông Lâm và Bách Khoa. Để có chổ ngồi những hàng ghế đầu, tôi phải từ nhà trọ trên Thủ Đức đạp xe đi học từ lúc 3 giờ rưởi. Trưa tôi ăn bánh mì với chuối và tối đạp xe về. Sự siêng học của tôi, vốn đã bén rể từ Bảo Lộc, đã chinh phục được ông chủ nhà quá khó tánh nhất ở khu vực đó. Sau một tuần, ông ta đã tình nguyện giặt đồ cho tôi để giúp tôi có thêm thì giờ học. Còn bà chủ nhà thì cho rằng tôi học cực hơn là một người lính đánh trận.
Một cô s.v, NLS Tây Ninh, Thúy Nga, đã thú thật với tôi là nàng đã chẳng hiểu mô tê gì các bài giải cũa tiến sĩ toán Võ Thế Hào. Nàng xin tôi dạy kèm cho nàng và một người bạn học, NLS Long An, Thị Hạnh. Tôi, một cách rất khiêm tốn, nhận lời ngay có lẻ vì cái áp lực khủng khiếp cũa nhóm máu NLSBL trong người tôi- làm để học. Không biết có ai trong trường mình, vốn không giỏi toán, không đủ giờ học, không dạn gái như cở Tâm Dê hoặc thằng Trọng Cọp của lớp tôi mà lại dám nhận dạy kèm toán cao cấp cho 2 cô s.v cùng khóa với mình không nhỉ? Vài tuần sau, tôi đã thật sự giúp họ hiểu toán hơn.
       Điều thứ năm đến ngay sau ngày 30 tháng 4, tôi đã khiến Mẹ tôi sửng sốt đến bậc khóc khi tôi xin bà cho tôi lên Bảo Lộc làm rẩy với thằng Khuê Bầu, cùng lớp với Phước Mọi. Tôi đã lên rẩy, ăn độn ngay ngày đầu tiên lên Bảo Lộc, 16- 5 1975. Sau đó 1 tháng, cùng với Long Kh’mer, chúng tôi lên Liên Khương để kiếm việc làm. Ông chủ vườn đã thật tử tế với chúng tôi. Ít hôm sau, ông ta khuyên chúng tôi nên trở về BL làm giấy tạm vắng để ông ấy có thể hợp thức hóa cho chúng tôi sống và làm vườn cho ông ta. Đọc đơn xin của chúng tôi xong, tên công an khu vực mời chúng tôi lên công an Huyện và họ biệt giam hai đứa tôi với tội danh là” tình nghi khai mang lý lịch để âm mưu phản cách mạng.” Suốt những ngày trong lô cốt đen ngòm, lạnh lẻo và ẩm thấp, tôi đã âm thầm soạn ra những câu viện dẩn, đã nghỉ ra những câu hỏi hóc búa sẽ bị điều tra và những khả năng xấu nhất có thể xảy ra. Máu NLSBL đã giúp hai đứa tôi ra “tù”. Tôi đã bào chữa một cách khá thuyết phục.
- Hiếm có một người thanh niên hay một sinh viên nào chỉ nghỉ đến việc mưu sinh bằng nghề nông như hai đứa tôi. Trường chúng tôi đã dạy chúng tôi rằng:” Học để làm. Làm để học. Tạo tiền để sống. Sống để phụng sự.”Đất nước nay được hòa bình độc lập. Chúng tôi cũng chỉ muốn sống một cách độc lập, yên bình. Khuê muốn độc lập tìm kế sinh nhai và tách mình ra khỏi gánh nặng nuôi 5 người con của mẹ nó. Tôi củng muốn độc lập sống ở đây thay vì phải sống trong gia đình với một thằng em hút xì ke, bất trị và côn đồ. Tôi đã bỏ nhà lên đây vì không muốn chứng kiến cái cảnh xụp đổ ấy. Làm sao ta có thể…
Người cán bộ hỏi cung tôi đã chú ý nghe tôi “thuyết trình”. Giá mà Thầy Minh Híp có thể nghe được, chắc thầy cũng phải vổ tay khen tôi mất thôi.
- Thế các cậu sẽ làm gì ở đây nào?
- Thưa cán bộ! Chúng tôi sẽ xây dựng lại trang trại. Chúng tôi sẽ nuôi một đàn gia súc, một đồng cỏ. Bạn tôi sẽ khuếch trương nghề trồng dâu nuôi tằm của cậu hai nó. Chúng tôi dự tính cả việc lập một tập đoàn sản xuất. Lập một thủy điện nhỏ tại con suối nhỏ ở đây là chuyện chúng tôi đã mơ ước. Chúng tôi còn có thể…
- Thôi, thôi thế đủ rồi. Tốt, tốt lắm.
Ông cán bộ hỏi cung ấy có vẽ thấm đòn “tâm lý thuyết” của tôi rồi. Nghỉ ngợi một đổi, ông ta kết luận:
- Hai cậu lên đây sống gần hai tháng nay bất hợp pháp, gây ra sự mất an ninh trật tự trong địa phương, gây mất đoàn kết nội bộ, bất bình trong quần chúng nhân dân, gây ra sự quan lâm lo lắng của công an khu vực, và cả hát nhạc vàng nữa đấy… Nay tôi phải ký lệnh trục xuất hai cậu về địa phương để lao động sản xuất! Cậu có 24 giờ để rời khỏi Bảo Lộc.
Tôi muốn chồm lên ôm ông ta mà nhảy múa như Alezit Jorba vậy. Ối trời đất ông bà ông vãi ơi! Hai đứa tôi vô tội. Hai đứa tôi được tự do rồi. Hai đứa tôi được sổ lồng về tổ củ
ở Cần Thơ rồi. Cả nhà Má Chánh đều mừng cho hai đứa tôi. Chúng tôi được thưởng vài cây chả nóng mới ra lò. Gớm, chúng tôi còn được chụp hình nửa đấy. Thằng Long Kh’mer thì kéo chúng tôi ra quán Má Năm ở mặt sau chợ Bảo Lộc. Bà đã thiết đãi chúng tôi một chầu cơm trắng còn Long kh’mer thì tận tình, tận tay pha cho hai đứa tôi hai ly cà phê đen, có lẻ là ngon nhất trên thế gian này. Nó có lẻ đã “chôm” tiền của Má Năm để mua vé cho hai đứa tôi về Cần Thơ. “Phải không thằng quỷ sứ kia, Long kh’mer?” Má Năm thường hỏi nó như thế. Còn nói về tôi, bà thường rầy Long Kh’mer:” Tối ngày mày cứ kéo thằng Thành Xì đi đâu đâu đó không hà. Không để cho thằng nhỏ ăn cơm ăn nước gì hết há” Tôi nhớ những câu nói này như in vậy.
 
     Những ngày ở Cần Thơ với Khuê Bầu thì buồn chán nhưng với tôi thì không. Tôi bắt đầu tập chụp bóng. Ngày ngày từ lúc 1 giờ trưa, tôi tập chụp bóng với một cậu học sinh lớp 8. Một hôm khoảng đầu tháng 9, tôi nhận được một bức điện tín cái mà đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi. Lâm Phèn, NLS Phan Rang, gởi điện kêu tôi về trường học lại. Không đăng ký, không sinh hoạt, không có lý lịch tốt, không có thân nhân tham gia cách mạng, không có tiêu chuẩn ở ký túc xá, tôi đã bắt đầu đi học lại đại học từ con số không. Nhóm máu của tôi đã giúp vượt lên. Tôi đá bóng cho đội lớp và tập cho nhiều s.v trong lớp. Tôi đã khéo léo dẩn dắt đội lớp đến chức vô địch toàn trường. Đương nhiên, tôi được tuyển ngay lập tức với vai trò tiền vệ tấn công. Anh Nguyễn Hưng, gốc Phan Rang, cùng lớp kiễm sự với Dũng Đê, được tuyển chọn làm đội trưởng. Trong một bửa tập, tôi đã bảo với anh Hưng:
- Để em làm thủ môn cho. Thằng Thuận, lớp 74 KCN, thấp và chậm quá.
Anh Hưng trợn mắt nhìn tôi:
- Từ lâu nay Thành đá tiền vệ mà? Anh nhớ mày đá ngon lắm mà! Mày vô đội tuyển tỉnh đá giải học sinh ở Phan Rang năm 1972, thầy Sáu Râu dắt đoàn, đúng không nè?
Thay vì trả lời, tôi đã bảo anh Hưng đá bóng lại phía tôi. Vung một cú sút khá mạnh, anh muốn thử tài tôi. Tôi bắt thật gọn và đưa bóng lại cho ảnh thật điệu nghệ. Lần này ảnh đá bóng sệt và xoáy. Tôi nhoài người nhẹ nhàng ôm bóng như một tay chuyên nghiệp. Anh Hưng chỉ còn biết đến bắt tay chúc mừng tôi: “Đúng là chú mày rồi!”
     Sau khi anh Hưng ra trường, cuối năm 1975, tôi lên làm đội trưởng kiêm thủ môn. Tôi liên tiếp được bầu làm xếp đội 4 năm liền và khi ra trường tôi được trường giử lại làm” Cán bộ thể thao, phụ trách Bóng đá, Bóng rổ”. Tôi được hưởng chế độ khá cao và là người cán bộ đại học duy nhất của năm ấy có 3 cái không: không phải là đoàn viên, không có lý lịch tốt và không có điểm tốt nghiệp lớn hơn 8. Trường Đại Học Cần Thơ trước đó đã không thể xin tôi về công tác như một cán bộ phong trào cho trường họ.
Thầy Sáu râu có thể thắc mắc:” Thành này, sao mà em có thể làm được như thế hả?”
Thầy Phạm Phi Hoành, vốn có ấn tượng với bài luận văn tốt nghiệp của tôi, càng thêm phục tôi. Thầy Trần Thanh Vân thì khỏi nói. Gặp tôi lần nào thầy bắt tay và rủ tôi nhậu. Thầy Trần Hiệp Nam , Thầy Nguyễn Văn Hạnh lúc nào củng cười chào tôi khi lên xe buýt của trường về Sài Gòn. Cô Dương Tuấn Ngọc cũng thật bất ngờ.”Phải vậy không cô?” Hai đứa hoc trò cưng của cổ, Lộc & Yến, gốc Mỹ Tho, được phân công về Năm Căng, Cà Mau xa tít.
- Kính thưa các Thầy Cô! nhóm máu NLSBL của em đã giúp em đấy thôi. Hàng vài chục trận đấu tốt, hai lần được tuyển vào đội S.V thành phố và việc tổ chức chu đáo các giải đấu trong trường này của em cũng đủ làm cái trường này tin dùng em thế thôi.
      Giống như trong chuyện tiểu thuyết, sau khi ra trường, đi làm ổn định, tôi vác ba lô hành lý đi xuống Sóc Soài, Rạch Giá tìm thăm mẹ tôi người đã trốn chạy xa thằng em tôi từ đầu năm 1976. Mẹ tôi dùng gần hết số tiền bán căn nhà ở Cần Thơ để tậu đất ruộng ở đây. Bà sống trong một túp lều nhỏ một mình bên kia sông. Đêm hôm ấy dù mệt nhoài sau một chặng đường dài, tôi đã không tài nào ngủ được. Trưa ngay sau đó tôi vác đôi giày trên vai, gọi đò sang sông, tôi lội bộ lên sân bóng xã để tập. Thanh niên ở đây trầm trồ xem tôi đá tập như chúng tôi đã làm khi cầu thủ kiêm nghệ sĩ Hoài Thanh vào sân trường mình tập 2 ngày liền tháng 10 năm 1973.
    Tôi được mời đá chầu cho một đội lớn ngoài tỉnh. Họ đã bao ăn ở, thanh toán tiền xe đi xuống và trả cho tôi 100 đồng một trận. Và tôi đã được giấy chuyển công tác về một công ty lớn nhất ở đây để vừa làm vừa đá banh cho họ. Trái bóng tròn đã lăn tròn cuộc đời tôi. Nghe lời khuyên chí tình của ngừơi mẹ nuôi, tôi đã về đây hầu có thể phụng dưỡng người mẹ ruột. Hai tháng sau, vị hôn thê của tôi xuống thăm đúng như lời mẹ nuôi tôi đã hứa. Nàng là con út trong gia đình, là học sinh xuất sắc của trường Lê Quý Đôn, là người hiểu biết thành thục tiếng Anh và tiếng Pháp và là người chỉ mơ mộng đi du học mà thôi. Ngay sau khi biết chúng tôi yêu nhau, bà tổ chức một đám hỏi tại Nhà hàng Đồng Khởi. Bà cũng đã lén đưa cho tôi đôi nhẩn và một sợi dây chuyền để tôi tặng vị hôn thê của tôi.
- Thành à, má thương con như con ruột. Chờ ngày con học ra trường, má làm đám cưới cho như thể cùng một lúc má vừa cưới dâu mà cũng vừa gả con gái vậy.
Tiếng đàn ghi ta của tôi, cách nhìn cuộc sống của tôi, cách tôi thương mẹ nuôi, và cách tôi đối xử với nàng khiến nàng thật sự yêu tôi. Để giúp nàng sống ở đây một thời gian tự lập, tôi đã bán sữa đậu nành mổi buổi tối. Tôi tự tay xay đậu, nấu đậu và đứng bán bên lề đường. Cậu Doản, dân Đà lạt, nghe vậy rất khoái chí. Nó hỏi tôi chứ tôi mổi ngày bán mấy ký đậu. Khi tôi bảo với hắn:” 3 lạng”, hắn phá ra cười khanh khách. Nó đâu ngờ rằng bán hết số nước đậu ấy tôi thu được một khoảng tiền bằng với tiền một tháng lương, 61 đồng. Nó, nhiều người trong trường NLS Bảo Lộc, ngay cả mẹ nuôi tôi cũng không ngờ rằng, nàng vì hạnh phúc quá đã ở lại Rạch Giá với tôi 6 tháng. Trong sáu tháng đó, tôi đã giử được tiết trinh cho nàng. Nhiều người đã hỏi tôi điều gì đã khiến tôi làm được điều như vậy. Tôi trả lời ngay: Nhóm máu NLSBL.
      Sau khi em trai và chị tôi vượt biên năm 1982, tôi không còn được tin dùng nữa. Tôi đã lập gia đình năm 1984. Vợ tôi là người tôi đã chọn để giúp tôi phụng dưỡng mẹ tôi. Còn vị hôn thê ư? Tôi đã đơn phương viết thư chia tay với nàng, người lúc nào cũng nghỉ đến “đi”. Tôi sống bên vợ và nấu rượu với nhà vợ. Những tưởng tôi sẽ trở thành “nhà sản xuất rượu lậu” nào ngờ đâu. Huấn luyện viên đội bóng Sở Lâm Nghiệp tìm gặp tôi để mời tôi chụp cho trận bán kết một giải đấu trong tỉnh. Tôi đã chẳng những không phụ lòng họ mà còn chơi xuất sắc trận chung kết 3 ngày sau đó. Ngay lập tức trong bửa tiệc nhận cúp vô địch, tôi được mời làm cho Công ty Lâm Sản, chức danh: giám sát công trình. Lại phải sáng sớm đạp xe vài cây số đi làm, lại phải đá banh tranh giải hàng năm, và đặc biệt hơn lại phải chơi đàn cho ban nhạc Sở Lâm Nghiệp tranh giải hàng năm, tôi hy vọng một sự đổi thay. Thầy Hoành gặp tôi rất tình cờ một sáng nọ tại Rạch Giá. Thầy hỏi tôi ngay:”sao tôi nghe bảo cậu đi rồi mà?” Em của Bích Vân trong một chuyến công tác, đã rất ngạc nhiên khi thấy tôi đang đứng vẽ bảng tên của Công Ty. Gần 5 năm làm việc, tôi đã vắt hết mồ hôi, tôi trút hết bầu nhiệt huyết vốn có, tôi đã cần mẫn làm việc, tôi đã mong một ngày được cấp một ít gỗ để làm một căn nhà nhỏ để rước mẹ tôi về chung sống. Họ đã lờ tôi. Họ đã thản nhiên quên mất những gì tôi đã làm cho bọn họ. Họ còn cử tôi vào phân xưởng mộc để xẻ gổ tạp làm củi trong lúc mà cả Sở Xây Dựng lẩn Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Tp HCM đánh giá cao sự đóng góp của tôi. Tôi làm đơn nghỉ việc sau khi tập tành làm được hai nghề phụ: thợ chụp ảnh và thợ vẽ bảng dạo. “Chúng ta không sờn chí trên vạn đường xa” quả là một câu tuyên bố để đời. Tuần 3 buổi tối, tôi cắp tập sách đến trung tâm ngoại ngữ thị xã để học Anh Văn. Cô Thành và thầy Hùng Đô La có ngờ đâu thằng học trò dốt nát ngày xưa của mình, sau một khóa học, lại có thể đậu ngay cái bằng A, với hạng xuất sắc, do ĐH Tổng Hợp Tp HCM cấp. Phải chi tôi có được trí nhớ tốt cở chừng phân nũa của Bác Nhất thôi, tôi đã tiến xa hơn mức tôi đã làm được. Một buổi chiều, rất định mệnh, đích thân ông thầy dạy Anh Văn của tôi đạp xe mini đến nhà tôi:
- Thành này, chúng tôi đã họp bàn kỹ lưỡng rồi và quyết định mời cậu làm giáo viên cho chúng tôi. Cậu dạy ngay chiều tối hôm nay trong khóa mới này. Chúng tôi tin cậu. Cậu trả lời sao nào?
Tôi, 36 tuổi khi ấy, ứa nước mắt, lặng người, thẩn thờ nhìn chung quanh. Đây là căn nhà lá cũ kỉ dột nát mà chúng tôi đang ở đậu. Đứng ngoài kia là vợ tôi đang mang bầu sắp sanh đứa con đầu lòng. Ngồi chơi nhà kế bên là mẹ tôi, người khắc khoải lo toan cho tương lai của chúng tôi từ nhiều năm nay.
Tôi nghỉ đến những gì tôi đã trải qua, đã chứng kiến, đã mơ ước, đã trăn trở, đã bật khóc, đã mỉm cười nghẹn ngào, những điều đã khiến tôi phải văng tục chửi thề và củng đã âm thầm câm tức, những đêm thức gần đến sáng để học hoặc để vẽ cho xong một bức tranh, những tấm tịch do chính một mình tôi làm ra… Thầy Chu Sĩ Lương còn điềm tỉnh chờ tôi trả lời, còn tôi thì không thể nào giử được bình tỉnh được nữa. Tôi đã chững chạc trả lời:
-         I hope I can make it if you all count on me and give me a hand.
(Em mong rằng em có thể thành công nếu như thầy và mọi người chung quanh tin vào em và giúp đở em).
Thưa các thầy cô! các bậc đàn anh đàn chị, các bạn học các ban khác nhau, điều gì đã giúp Thành Xì này có được một cơ hội như thế? Có phải là nhóm máu NLSBL không?!
 

Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

ÔI MỘT MỐI TÌNH- 3

Nếu tin vào số phần, tôi có thể đổ lỗi cho trời đất nhưng chính nàng với sự đồng thuận tôi đã tạo ra cái đêm sinh nhật thứ 25 ấy mà không phải người thanh niên nào cũng có thể có được.
Tình cờ tôi có một lệnh triệu tập đi dự một khóa học 1 tuần về “Kiểm định cột bơm xăng dầu” tại Long An do Công Ty Xăng Dầu Khu Vực II tổ chức nhưng không phải tình cờ mà tôi đã ghé vào thăm nàng tối hôm ấy, 17- 8 1980. Gặp mặt nàng tại nhà, ngồi ăn tối chung với nàng và người chị Hai, tôi đã thật sự tự nhiên khi kể lể, nghe ngóng và trả lời mọi câu hỏi của hai chị em nàng. Tôi ghé thăm nàng vừa như một người bạn học cũ và cũng vừa  như một người tình cũ. Tôi mới vừa về làm tại Cty Vật Tư Tổng hợp Rạch Giá. Nàng dạy tại ngôi trường xưa- NLS Long An. Tôi mong có ngày lập gia đình để phụng dưỡng mẹ tôi. Nàng đã có sẵn mọi thứ tôi thèm muốn- một gia đình hạnh phúc. Tôi đã không nhắc gì đến vị hôn thê Như Ngọc của tôi và nàng cũng thản nhiên không quan tâm gì đến cái người mà nàng đã từng cho rằng: “cướp mất tôi từ tay nàng.” .
Gần về khuya, ra trước sân  nhà, hai đứa tôi ngồi sát bên nhau và không bao lâu sau chúng tôi quyện lấy nhau như hai người tình nhân trẻ. Môi nàng tìm môi tôi và nàng như muốn ngất đi vì hạnh phúc- cái hạnh phúc được yêu thương, được thấu hiểu. Nàng đã chứng minh lời tuyên bố của nàng,
”Em bao giờ cũng mong anh trở về với em như bến đò cũ chờ con thuyền xưa vậy.” 
Nàng hiện hạnh phúc vì có tôi bên cạnh, ít ra là trong một tuần tôi được tập huấn tại đây. Nàng đã từng mong có được giây phút này. Trong thời gian chờ nhận nhiệm sở cuối tháng 8 năm trước, 1979, nàng đã theo một bạn học – Nhàn, 71-74 Mục Súc, NLS Bảo Lộc- lên tận Pleiku. Trên chuyến về ghé lại trường, nàng vô tình để quyển sổ tay nhỏ trong đó nàng chỉ viết về tôi. Vừa về đến  nhà, bên hông chợ Thủ Thừa, vừa nhận ra đã để quyên nó, nàng lập tức quay về trường vì nàng cần đọc và viết hàng ngày về tôi, cho tôi- cái anh chàng NLS Bảo Lộc lắm tài nhiều tật này. Thật ra tôi chỉ có vài tài mọn và tôi không hề có một tật xấu nào. Có ai giải thích được tình yêu chưa nhỉ? Có ai đó nói cho tôi biết tại vì sao nàng hiện yêu tôi cũng như tại vì sao tôi đã yêu B.V và tại vì sao tôi hiện đang ở Rạch Giá có một vị hôn thê- người luôn luôn muốn tìm đường ra đi chứ không phải tìm cách về Rạch Giá để lập một tổ ấm với tôi?
    Sáng hôm sau, đưa tôi lên xe bus về Long An nàng căn dặn tôi đủ điều và một điều đặc biệt nhất là,
“Chiều thứ ba, sau buổi học, anh về với em nhé. Anh đi xe lôi máy. Từ Long An đến nhà mất chừng nửa tiếng thôi nhé. Em rất mong anh về đấy.”   
Tôi, người thanh niên 25 tuổi, có những thứ thông thường ai cũng có. Tôi đã làm những điều thông thường mà mọi người trước đó đã làm và tôi sắp làm điều mà đa số đàn ông làm, về gặp người yêu cũ theo lời yêu cầu của nàng.
Đến nhà nàng khi khu phố ấy vừa lên đèn, tôi như một tài tử vừa đóng xong một đoạn phim, áo thun màu vàng sáng tay dài thật ôm, quần ống loa khá rộng màu nâu. Nàng cười thật rạng rỡ, và nàng thật hảnh diện khi sánh bước bên tôi đi dọc theo con đường nhỏ dắt ra quốc lộ. Chọn một quán khá thích hợp với nhạc Trịnh Công Sơn buồn, nàng cũng móc ra gói thuốc mời tôi như ngày nào và nàng cũng uống thức uống mà tôi gọi- cà phê đen. Nhoẻn miệng thật tươi với tôi, nàng nói,
“Chúc mừng sinh nhật anh!”    
Tôi hơi bất ngờ và chỉ còn biết nắm chặt tay nàng, lí nhí nói cảm ơn. Nàng thật ra đã từng khiến tôi bất ngờ vài lần. Nàng đã tự động ghé thăm mẹ tôi ở Cần Thơ. Nàng đã nhái giống y cách tôi viết. Nàng đã đeo số áo giống tôi và nàng cố làm đội trưởng đội bóng chuyền nữ của trường vì tôi là đội trưởng đội bóng đá nam và nhất là nàng đã hai lần bảo tôi về nhà nàng để- theo lời nàng nói-,
“Em sẽ cho anh hết.”
Tiếng hát Khánh Ly, âm nhạc của Trịnh Công Sơn không có gì tương đồng với tâm trạng của tôi nhưng tôi thêm một lần nửa lại thấy buồn. Hôm nay tôi tròn 25 tuổi. Nàng đải tôi chầu cà phê này như là tiệc sinh nhật. Hôm nay chỉ có tôi và nàng biết được cái thi vị của buổi tối mà thôi.
    Ngồi cạnh nhau trước hàng ba cho đến khi các đứa em của nàng đã đi ngủ hết, nàng bảo tôi,
“Anh chờ em một lát  nhe.”
Trên cái đi văng trong phòng khách đã được tắt đèn, một cái mùng mới tinh vừa được nàng mắc xong. Tôi rạo rực như một người chồng mới bước lên cái giường trong đêm động phòng. Tôi cố tình tập trung. Tôi cố gắng giử bình tỉnh. Vài phút trôi qua thật chậm chạm. Không gian sau nửa đêm thật sự yên tỉnh nhưng lòng tôi thật sự sốn sang, rối tung lên. Một trận cuồng phong sắp diễn ra tại đây. Tôi thật sự không biết phải làm gì khác hơn là chờ đợi điều gì sẽ đến với tôi. Tiếng động thật nhẹ từ tấm rèm ở cửa buồng làm tôi biết ngay rằng nàng đang bước ra. Vừa vén mùng lên, vừa lọt nửa người vào, nàng bị tôi kéo ngay lên người tôi cái cách một thủ môn ôm ghì trái bóng. Tôi dán dính nàng vào người tôi bằng hai đôi tay dẻo dai khéo léo của chàng thủ môn có hai bàn tay bạch tuộc. Tôi khóa miệng nàng bằng hai môi tôi. Tôi với nàng xác nhập thành một. Dòng máu NLS Bảo Lộc của tôi như được chuyền sang người phụ nữ NLS Long An ấy.
    Đêm hôm ấy, nàng và tôi, cùng 25 tuổi, như một cặp vợ chồng trẻ tuổi 20 động phòng. Và chúng tôi đã làm đúng điều trong cái câu cổ ngữ quen thuộc, “Đêm….. ngày….”. Nàng đã cùng tôi biến cái đêm tối mịt ấy thành một ngày sáng lạng, để nàng có thể có những ngày tháng khác tốt đẹp hơn với tôi thay vì phải đi tìm một chổ để ra đi, để tìm một người đàn ông khác.

ÔI MỘT MỐI TÌNH -2

Gặp mặt nhau hằng ngày, chơi thể thao hằng ngày trong cùng một sân, nghe nói về nhau hằng ngày và việc nghĩ về nhau hằng ngày thì thật là rất khó đối với nàng để quên tôi nhưng với tôi, bóng đá, bà mẹ nuôi và Như Ngọc đã giúp tôi quên đi cái mối tình nóng bỏng nhưng khá chóng vánh ấy.
     Gần một năm sau khi tôi nói lời chia tay, trong một buổi thực tập, nàng lên tiếng xin trò chuyện với tôi. Như đã chuẩn bị trước rồi, nàng hỏi tôi ngay trong nước mắt,
“Có phải anh chia tay em vì một người khác phải không?”
Tôi, như một bị cáo không có luật sư biện hộ, đã đáp trả rất rỏ ràng,
“Sau khi anh chia tay em, anh đã gặp một bà mẹ nuôi. Sau một thời gian sống trong gia đình ấy, anh yêu Như Ngọc, cô con gái út trong nhà.”
Nước mắt nàng tuôn nhanh như nước thác Đam Ri trong mùa mưa lũ,
“Anh đã đính hôn vói cô ta rồi phải không?”
“Đúng rồi. Má nuôi anh đã tổ chức một tiệc nhỏ.” 
Nàng bổng ù chạy nhanh ra sân trường để mặc tôi tần ngần ngồi lại trên ghế đá trước khoa Nông nghiệp. Thêm một nữa tôi đã làm cho nàng khóc. Thêm một người phụ nữ nữa bị đau khổ vì tình yêu. Nhưng tôi đâu có tội tình gì!?
     Ngày tháng, năm học, xuân hè, đông đến và cuối cùng đến giai đoạn chúng chuẩn bị ra trường. Tôi, với bàn tay chụp bóng hàng ngày, đánh đàn hàng đêm trên Bảo Lộc, phụ trang trí báo tường hàng kỳ, nay trở thành tay kẻ vẽ bìa các tiểu luận cho cả khóa tôi- tháng 8 năm 1979. Viết đẹp, trang hoàng cân đối duyên dáng là việc không khó nhưng không phải ai cũng làm được. Gần một tháng, tôi đã có rất nhiều lần được ân cần, căn dặn, yêu cầu,
“Tới phiên tao nhe. Mai đi ăn sáng với tao nhe. Đến trưa, chiều theo tao ra quán. Thuốc và hộp quẹt đây nè. Cần gì cho tao hay liền nghe, Thành Xì. Có ba cuốn tiểu luận với một tấm phông thôi mà…”
 Nhưng trong số đó, có một lời xin rất đặc biệt của Trung- người có bạn gái sống cùng phòng với nàng,
“Ê, nàng đang rất mong mày giúp đở đó. OK nhen?
Tôi nín thin phần vì để tâm vào nòi viết, phần khác vì thật khó mà trả lời. Trung hỏi tôi đến lần thứ ba mới thấy tôi yên lặng gật đầu. Theo cái hẹn tôi đến phòng nàng tối hôm ấy khi những người khác đã đi ra ngoài cả rồi. Nàng cười thật tươi khi mở cửa phòng đón tôi vào.
“Cần kẻ gì mang ra đây đi!”
Tôi nói trổng với nàng như thể tôi phải một việc bắt buộc vậy.
Nàng như kẻ đang hấp hối trên giường gặp ông thầy lang đến thăm.
“Dạ chỉ có mấy cái bìa và anh kẻ giùm em cái biểu đồ phát triển….”
Tôi lầm lì mở giỏ đồ nghề ra, lọ mực tàu, hai ba viết nét rong, thước và giấy thấm mực khi mà nàng rung rung đặt lên bàn cái gạt tàn nhỏ và một gói thuốc “Sài Sòn Giải Phóng”- thứ thuốc mắc tiền khi ấy. Tôi thao tác như một tay chuyên nghiệp. Sau hơn một giờ tôi xong việc, một giờ nàng nín lặng theo dỏi từng nét chữ tôi thoăn thoắt lướt đi trên giấy.
“Anh đi ra xa lộ ăn chè với em nghe. Em cũng muốn nói chuyện với anh nữa, nhe anh.”
Nàng khẩn khoản nghe rất tội nghiệp. Tôi gật gù khi châm một điếu thuốc mới. Mặc cái áo mới quá khổ của anh thằng Lộc cho tôi, mang giày cao gót do anh Long Kh’mer tặng tôi và với tóc hơi dài như cái thời ở Bảo Lộc, tôi trông giống như dân chơi hơn là sinh viên sắp tốt nghiệp. Trên đường, thỉnh thoảng tay nàng chạm tay tôi, nàng thấy gần tôi hơn bao giờ hết,
“Anh đang có chuyện buồn phải không anh?”
Tôi cười mũi,
“Có lúc nào mà không buồn.”
Hai chén chè thơm ngon làm tôi thấy dễ chịu hơn bất cứ lần nào trước đó.
Tôi không biết phải làm sao để kết thúc buổi tối hôm ấy khi mà nàng hỏi tôi tản bộ với nàng vào khu chung cư trước mặt. Ngỏ tối đen, ít người qua lại khiến tôi nghe được hơi thở của nàng.
“Em vừa đọc xong quyển “Kẻ chịu chơi- Alezit Zorba.”. Em thật sự mới hiểu hơn về anh.”
Không để cho nàng một giây để phản ứng, tôi ôm ghì nàng vào lòng và đặt lên một nàng một nụ hôn nóng nhất, lâu nhất mà nàng chưa hề nhận được trước đây.
“Đó là điều anh cần. Anh luôn muốn được mọi người hiểu anh. Anh có lúc mắc lỗi. Nhưng anh đã chưa làm gì trật với em, phải không?”
Nàng ngả đầu vào vai tôi, hai tay ghì tôi chặt như không muốn tôi rời xa nàng một lần nữa,
“Mình đi qua bên phía sau trường đi anh.”
Hai đứa tôi đi thật nhanh về mặt sau của trường khi mà trong lòng không ai còn ngần ngại gì nữa cả. Vừa bước vào vùng bóng tối của những rặn cây um tùm sau vòng rào trường, tôi siết chặt nàng vào người tôi và tôi dán hai môi tôi lên hai môi đang mấp máy rung rẩy của nàng. Thời gian như ngừng lại. Hai trái tim chúng tôi thì không. Hai cơ thể như muốn quyện thành một. Nàng đang rên rỉ. Nàng cần tôi một cách rất nhân bản. Tôi cũng cần có nàng rất tự nhiên nhất là khi mà năm vừa qua tôi không về với gia đình nuôi nữa và tháng tư vừa rồi tôi đánh điện tín chúc chuyến đi “bán chính thức” của vị hôn thê của tôi được may mắn.   
Tôi kéo nàng theo tôi xâu vào trong khu vườn rẩy trong bóng tối như mực. Tôi muốn nàng quên hết mọi thứ. Tôi muốn cho nàng những cảm nhận thật riêng của tôi, nửa phần rất hạ ngã, nửa phần kia rất thanh khiết. Tôi kéo mặt nàng lên ngực tôi sau khi tôi vội mở các khuy áo. Tôi muốn nàng phà hơi ấm lên đó, đặt đôi môi lên đó. Tôi muốn nàng nhểu những giọt nước mắt vui sướng xúc động ấp áp lên đó. Tôi muốn nàng khóc như mưa cái ngày cách đây 2 năm tôi chia tay nàng. Tôi mở các khuy áo, cái hai vạt áo trùm lấy phần trên của người nàng khi chúng tôi nghe một tiếng hỏi lanh lảnh,
“Ai đó. Ai làm gì trong rẩy của tôi giờ này vậy?”
Tôi thật lẹ làng trả lời,
“Xin lỗi nghe. Chúng tôi là sinh viên, đang đứng chơi ở đây.”  

ÔI MỘT MỐI TÌNH

Trong thuở cắp sách đến trường, học trò có rất nhiều điều khó quên hoặc khiến người khác khó quên. Ở đại học, tôi đã có một mối tình. Tôi đã nói yêu và chia tay rất nhanh nhưng đến nay, sau 37 năm, có những chuyện tôi thấy rất khó nói ra với nàng, dân Nông Lâm Súc Long An, hiện giờ ở Cali với người chồng Mỹ.
       Sau giải phóng, chúng tôi, nửa năm học của Đại Học Giáo Dục- Viện ĐH Bách Khoa Thủ Đức, được gọi học lại. Khoá chúng tôi được chia làm 3 lớp- A,B,C. Có những môn học, 3 lớp chúng tôi học chung trên giảng đường. Một hôm, trong một tâm trạng rất “Nông Lâm Súc Bảo Lộc”- lãng mạn, phá phách và một chút nịnh đầm, gần giờ ra chơi, tôi bổng nhảy xuống thảm cỏ, tìm vài cây cỏ dại- có hoa- tặng để tặng nàng. Thật ga-lăng, tôi nhìn thẳng vào mặt nàng, mỉm cười,
“Quà cho em đây.”
Tôi ý thức điều tôi làm và tôi biết việc gì có thể xảy đến. Đối với nàng, đó là một món quà ấn tượng và ý nghiã còn đối vơí các nữ sinh viên khác có thể đó một điều xàm xỡ, bậy bạ. Tôi có thể- hơi tếu một chút- hỏi thẳng họ câu này:
“Trong khi cô đơn, chúng ta cần gì nào: một sự cảm thông, hay một triệu đoá hoa hồng? một lời an ủi hay hay một ngàn “si-te” củi?”
Tôi đang cô đơn. Tôi muốn có một người để tâm tình, bày tỏ. Hai đứa tôi có những điểm chung: dân NLS, học xa nhà, và có hai trái tim. Thay vì thờ ơ với tôi, nàng mời tôi đi chơi cuối tuần ấy. Tôi mừng vì ít ra tôi cũng vừa có được dịp nói ra điều gì khiến cho tôi thành một kẻ hơi ngông nghênh, hơi ngạo mạng. Mua cho tôi một gói thuốc và mang sẳn theo một cái hộp quẹt, nàng khiến tôi có cảm tình. Hai đứa đi theo một đường mòn quanh hàng rào trường rồi theo lối nhỏ đó chúng tôi đi đến tận xa lộ Đại Hàn. Không có hàng quán, không có một chổ để ngồi nghĩ chân, nàng và tôi sánh vai nhau đi, đi mãi.
     Nàng kể cho tôi nghe rằng trước kia trong lúc các học trò Nông Lâm Súc về Bình Dương thi vào Cao Đẳng tháng 8 năm 1974, nàng đã chọn và đưa tôi vào tim nàng. Vậy không phải có duyên nợ gì sao mà tôi lại tặng nàng cái bó hoa độc đáo ấy. Vậy không phải vô cớ mà nàng lại rủ tôi đi chơi chiều tối ngày hôm ấy tháng 10 năm 1975. Chúng tôi kể và hỏi chuyện nhau một cách chân tình thẳng thắn. Tôi nói ra những gì tôi muốn nói. Người nam sinh trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc khờ khạo, lành tính, ít nói ngày nào bổng trở thành một thanh niên lịch lãm, phong trần, vừa thanh thoát, vừa lưu loát. Nàng xuất thân từ một gia đình gia giáo. Ba nàng vốn là giáo viên, hiện nghĩ hưu. Nàng có cả thảy 5 chị em gái và một em trai. Không có ai là lính nguỵ. Tôi xuất thân từ một gia đình nhà binh. Ba tôi cũng nghĩ hưu. Tôi có hai chị em gái và một em trai- lính nguỵ và một anh trai- đại uý nguỵ. Điều khác nhau giửa hai đứa tôi là rất rỏ. Nàng không có điều gì để than phiền về gia đình còn tôi thì ngược lại. Nàng rất có thể sẽ học suông sẻ cho đến ngày ra trường. Tôi rất có thể bỏ dở giửa chừng hay bị loại vì chuyện lý lịch. Nhưng như có một nam châm hút nhau, hai đứa tôi kề vai, hai chân có khi chạm vào nhau đều bước cho tới lúc tôi nhìn thấy một bải cỏ rộng trên một đồi thoai thoải, nhìn xuống hàng cây tràm và xa lộ Đại Hàn, ĐH Nông Nghiệp 4.
     Tôi kéo nàng ngồi xuống bải cỏ để nghỉ chân và để tôi có dịp bình tỉnh hơn. Tôi đã gìn giử được tình cảm đẹp đẻ của tôi với Bích Vân hơn hai năm ở Bảo Lộc. Giờ đây gần hai giờ trôi qua, tôi như muốn bùng nổ. Tôi như thành một người khác. Cái bộ mặt thật của tôi lộ ra, nhám nhúa, xấu xa hay trần tục gì đấy lộ ra. Cái bức bách của những điều khó khăn, đè nén, cái thiếu thốn căn bản, thèm muốn rất nhân tính và cái sự bất ổn lo sợ của tôi cần có chổ tuôn trào ra. Thở hổn hển khi nói lên sự cảm thông của nàng, gương mặt nàng lộ ra lời kêu gọi,
“Hảy yêu nhau đi như rừng thay lá. Hảy yêu nhau đi…..”
Kéo mạnh vai nàng vào lòng tôi, tôi nói tôi yêu nàng và ngay sau đó nàng cũng nói nàng yêu tôi. Chúng tôi hôn nhau thật nóng bỏng thật hết lòng. Hơi nóng từ cơ thể của nàng làm người tôi nóng hẳn lên như một lò sưởi đang cháy rực lửa và không có gì có thể ngăn chúng tôi lại được nữa. Trời tối dần, dịu mát trong lúc chúng tôi sáng lên, bỏng cháy. Đêm ấy trên trời có một trăng lưởi liềm. Đêm ấy trong người tôi có một lưởi hái. Tôi đã cắt bỏ những ngại ngần, nhút nhát, những lo sợ, hoang mang. Với một tình yêu mãnh liệt, chúng ta có thể thay đổi tất cả. Với một người yêu quý và hiểu ta, ta có thể thay đổi cả một cuộc đời. Tôi đã tin như thế.
     Hàng cuối tuần chúng tôi đi dạo quanh trường. Thường thì nàng chủ động rủ tôi.  Nặng nề trong tâm trí, hoang mang trong lòng, tôi rảo bước bên nàng mà thấy rời rạc, xa cách. Sức hút của cái nam châm mới đây không còn nữa. Hơi thở rất riêng, rất nữ tính của nàng vẫn thế, vẫn còn đấy. Nàng chắc nghe những tiếng thở dài của tôi còn tôi thì nghe rất rỏ những mẩu chuyện nàng kể. Hai chúng tôi dần xa nhau. Trong tâm khảm tôi, tôi muốn có nàng bên cạnh nhưng để nghe tôi tâm sự. Tôi muốn đi thật xa. Tôi muốn trốn tránh cái thực trạng nơi mà ai nấy đều hoan hỉ chờ ngày học xong và một ngày sáng sủa hơn trong khi tôi nhìn thấy cái viển cảnh bị đuổi học, bị chìm vào cái hố xâu sụp đổ của gia đình tôi. Tôi muốn lặng thinh muốn ứa nước mắt, tủi cho cái thân của tôi. Tôi muốn nàng im lặng nghe tôi, tiếng tôi thở dài ngán ngẫm. Thể nào tôi cũng kể cho nàng nghe những chuyện rất riêng tư về gia đình tôi. Ai trong trường cũng biết rằng tôi đã lao vào cuộc chơi bóng đá như một kẻ cuồng si, chứ không phải một sinh viên thông thường có sức khoẻ, có năng khiếu, tài năng. Họ chắc biết tôi đã ôm đàn chơi hằng đêm để làm gì? Tôi rất muốn tự nàng nhận ra cái nguyên cớ riêng ấy của tôi. Nàng dường như không có gì riêng ẩn khuất trong khi tôi rỏ ràng có hàng chục điều không biết nói cùng ai. Tôi nhớ một câu mà Thầy Vũ Thuỷ thường nhắc,
“Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà là cả hai cùng nhìn về một hướng.”
Khi chúng tôi đến cái khu rất rậm rạp sau trường, trời tối đen như mực. Nàng bổng hỏi tôi trong tiếng thở mạnh,
“Bộ anh chán em rồi hả?”
Thay cho câu trả lời, tôi ghì thật mạnh nàng vào lòng. Tôi hôn môi nàng và nàng đón nhận như một cặp tình nhân xa vắng nhau hằng mười năm. Nàng như nhập vào người tôi, mềm mại, yếu đuối. Tôi muốn kêu lên,
“Em có biết anh đang nghĩ gì không? Em biết anh đang khổ tâm thế nào không?”
Nụ hôn có khi chỉ để biểu lộ cảm xúc lý tính có khi chỉ để che dấu một cảm xúc khác. Tôi thèm một tình thương, một sự thông hiểu rất thật của những người thân của tôi. Tôi thèm vào rừng làm thợ cưa. Tôi muốn mình có một mái gia đình nhỏ thế thôi. Nhưng tôi không thể nói với nàng những điều đó. Cái hạ ngã trong tôi kéo tôi xuống thấp. Tôi kéo nàng xuống bất chấp trên nền đất hay cát. Tôi quyện lấy nàng như một con trăn quấn chặt cái thứ nó đang cần, như một người . Tôi chỉ còn nghe tiếng rên xiết của nàng mà thôi. Bóng tối bao trùm chúng tôi.
     Ba tháng sau, nỗi ray rức, mặc cảm tội lỗi, sự lo sợ hay chán chường đã khiến tôi phải gọi nàng ra để nói sự thật. Tại khán đài nhỏ sân bóng đá của trường, lúc trưa nắng nóng, tôi đã nói rất rỏ với nàng,
“Anh đã từng thật sự yêu em nhưng đến nay anh không thấy còn yêu em nữa. Giửa hai chúng ta có nhiều khác biệt. Em cố gắng quên anh đi.”
Trời nắng bên ngoài sân nhưng nàng khóc như mưa trước mặt tôi. Tình yêu có khi là thế đấy.

PHƯỚC MỌI 2

    Lần thứ hai tôi đến Hà Tiên chơi với Phước Mọi giúp tôi hiểu nó hai lần nhiều hơn, thắm thía tình đời hai lần nhiều hơn và tôi còn học thêm hai bài học mới.
    Mỗi lần Phước Mọi về Việt Nam là mỗi lần hắn tổ chức tảo mộ cha mẹ ông bà. Ai nấy có thể rủ vài người thân đi thăm phần mộ của người họ yêu quý nhất. Tôi rất nhiều lần đi tảo mộ mẹ, hoặc ba tôi một mình. Tôi mang cho mẹ một bó hoa cúc nhỏ và một ít trái cây, cho ba tôi một lon bia và đứng trầm tư buồn bả trước mộ. Phước Mọi là con trai út. Cả gia đình 4 trai, 6 gái, hai người đã mất, nhiều con cháu, dâu rể, và tôi- người khách duy nhất, người lên Hà Tiên chỉ vì muốn thăm Phước- tề tựu bên phần mộ.
   Có thể xem như hôm ấy là ngày giỗ chung ông bà cha mẹ. Mấy người chị của Phước Mọi bỏ ra một ngày nấu nướng chuẩn bị đồ cúng. Hai lều dựng được dựng sẳn mặc dù phần vòng mộ có bóng cây và trời mát. Một xe lam, được thuê bao trước, chở những thứ mà tôi phải ngạc nhiên trầm trồ, vừa đầy đủ cho 60 thực khách, vừa chu đáo vừa ngon miệng. Chị Tư thật xứng đáng là tổng chỉ huy của “buổi giỗ ngoài trời” trong khung viên phần mộ sạch đẹp lộng gió hôm ấy và tôi nghe đâu nhiều lần trước đó nữa. Ngoài các thứ chính thức, chị Tư còn “trang bị” đủ rượu bia nước đá cho khỏang 20 người thực khách nam. Trong lúc anh Sáu, lần thứ hai về Việt Nam, có vẻ là khách mời giống tôi. Tôi mang đến một ít trái cây, cây đàn guitar- như lời đã hứa với Phước Mọi và cái tấm lòng của tôi. Ông anh việt kiều- thứ 6, cùng về với Phước Mọi- thứ 9, hình như cầm về một chai rượu và…Anh Hai, từng là hiệu trưởng NLS Thiện Lập trên B’lao, quyền huynh thế phụ. Người ở lại Hà Tiên, chất phát hiền lành, anh Bảy cũng có cụng ly với tôi nhưng thường mỉm cười,
   “Sáng mai còn phải dậy sớm phụ bán với mấy đứa nhỏ.”
Tôi chọn Ánh Tuyết con gái út của anh Bảy làm con nuôi để dạy cháu Anh Văn và tôi cứ bảo chị Tư nhận tôi là thằng em “thứ 9 rưỡi.” Không biết có ai thấu hiển rằng tôi thèm muốn niềm vui rất thông thường ấy như thế nào không nữa? Tối hôm ấy, hơi ngà ngà say, tôi đã thật hả hê vì đã hát được bài Lòng mẹ.
   Phước Mọi và tôi vui buồn lẩn lộn. Tôi hiểu cái ngỗn ngang trong lòng hắn vì so với tôi hắn có nhiều thứ đáng qúy nhưng hắn cũng ẩn ức vì sự thiếu thốn những thứ không đáng có. Hắn có nhiều anh chị em và con cháu hôm ấy cùng hắn thăm cha mẹ ông bà. Cậu út Phước Mọi vui cười uống bia, đàn hát, quay phim, chọc phá các đứa cháu gái, thúc giục mấy đứa cháu rể cụng ly với tôi. Tôi, trưởng nam và ba tôi con trai độc nhất, thì không. Mỗi năm 25 tháng chạp giáp tết, mỗi mình tôi với các người bà con bên ngoại tảo mộ mẹ tôi. Nhìn mộ 2 bia họ Lâm của ba nó cạnh nhau tôi chạnh lòng nhớ ngay đến mộ bia cũng họ Lâm của mẹ tôi nhưng bà nằm một nơi, ông, họ Lương, ở một nơi khác. Mỗi lần về quê hương V.N, hắn có một niềm vui rất lớn, vui xum họp đông đủ gia đình. Cũng tha phương như hắn, mỗi lần về quê ở S.G, tôi không thể nào có được niềm vui tương tự.
    Ở chơi với anh chị em mấy ngày, hắn có một chuyến ngao du ngắn và dĩ nhiên điểm đến mà hắn rất mong đến là Bảo Lộc. Phước Mọi gọi tôi trước và hẹn sẽ gặp tôi vào sáng ngày 27- 8. Tiếc thay tôi không thể cùng hắn hưởng được cái lạc thú của việc về chốn cũ, gặp vài người bạn học thời xa xưa hơn 30 năm trước. Hắn thích thú tâm tình, han hỏi bên bàn café Tâm Châu, ăn sáng trưa với vài bạn học cũ, trong đó có cô em góa bụa của tôi. Hắn có dịp trổ tải chơi bida với họ, người ghi điểm, kẻ chấp “nửa đường cơ”. Hắn cùng bạn bè xưa đi thăm ngôi trường cũ. Hắn chọn cơm chiều tại quán Kim Nga, đối diện cổng trường NLS do chị em của Long Kh’mer đảm đương. Phước Mọi được chị Tư kể cho nghe chuyện gia đình như một bà chị lâu ngày gặp em út. Sau buổi cơm chiều, Phước Mọi đi thăm mộ Long Kh’mer, đã được vợ con di dời về nằm cạnh ba má năm.
“Chắc Long Kh’mer ở dưới suối vàng vui lắm đó Phước ơi!”
      Tối đến cũng bao nhiêu lần hội ngộ, Phước Mọi hát karaoke tại nhà một người bạn và hòa mình trong cái không khí rất bằng hữu, rất ư là Việt Nam. Âu việc vắng mặt của tôi có khi làm tăng lên cái mức được thụ hưởng, đải ngộ, đón tiếp của Phước Mọi tăng lên gấp đôi lên. Để kể cho tôi nghe, trong lúc mail cho tôi, hắn đã viết mở đề,
   “Về Việt Nam lần này vui quá.”
    Vừa đọc xong, tôi tự thấy vui trong lòng. Đời có khi thật đơn giản. Hạnh phúc nhiều lúc rất giản dị. Cớ sao nhiều người thật lao đao, vất vả mưu cầu được hạnh phúc. Hai chữ “vui quá” của Phước Mọi có lẻ cũng là cái “vui quá” của tôi. Niềm hạnh phúc đơn giản ấy đâu phải ai cũng mong ước nhưng đâu phải ai ao ước cũng đều có thể có được đâu! Phải không Phước Mọi?

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

TÔI DẠY ANH VĂN

Từ Nông Lâm Súc Bảo Lộc, ban Thủy Lâm, tốt nghiệp ĐH ngành giảng dạy Nông Nghiệp, ít có ai lại trở thành thầy giáo tiếng Anh như tôi và cũng ít có giáo viên tiếng Anh nào có những suy nghĩ, cách làm như tôi.
      May mắn thay, tôi được mời đi dạy sau khi tôi mới có bằng A bởi vì tôi được xem như là một ứng cử viên sáng giá nhất lúc ấy ở trung tâm tôi đang theo học. Không có ai có thể tượng được tôi đã trước chỉ tập nghe được khoản một tháng với cái máy casstte cũ kỹ của vợ Khuê Bầu trong lúc qua làm việc cho nó bên Cần Thơ. Vì trước đó chưa hề được đào tạo, tôi đã chọn cho riêng tôi một cách khi tôi dạy lớp đầu tiên cho người học vở lòng- khó cho phía họ và phía tôi. Khi tôi được mời dạy một nhóm bác sĩ sản khoa, tôi đã phải lại có một cách khác. Kế tiếp tôi được mời dạy lớp Thiếu nhi, loại lớp khó nhất, với nhiều năng khiếu, nhiều tố chất nhất. Tôi đã diển xuất cả như một nghệ sĩ, kịch sĩ hoặc như một ca sĩ.
    Trong khi các giáo viên cố che giấu họ trước đó đã học và hiểu như thế nào, tôi kể cho học trò tôi nghe hết mọi thứ về tôi. Họ áp dụng cái gì họ đã học trước đây trong khi tôi thực thi cái gì tôi có thể nhận ra trong khi dạy. Họ cứng nhắc, rập khuôn từng chi tiết nhỏ theo sách giáo khoa. Tôi linh động, sáng tạo và thay đổi phương pháp liên tục để củng cố nghề dạy của tôi. Tôi tự dặn lòng rất nhiều điều. Tôi tự xét, tôi tự vạch ra mục tiêu để tăng tiến và tôi cũng đau khỗ nhận ra rằng họ học Anh Văn như cái cách của người nông dân ra đồng, cái cách mà một số ông bạn lười biếng của tôi đã làm trên B.L. Họ nghỉ học hoặc đến sớm trể tuỳ tiện. Họ không hiểu nổi rằng việc học Anh Văn giống như việc cải tạo đất cho nhiều năm sau sử dụng. Họ không công phu như một nông dân chân chính trong khi tôi vất vả tận tuỵ như một cán bộ nông nghiệp xã, ấp. Họ đã không đọc từ vựng cái cách tôi đã tụng các tên khoa học của cây rừng hồi ở NLS. Đa số họ khác hẳn với tôi.
   Qua một số bộc lộ của học trò, tôi nhận biết rằng dù họ không giỏi tiếng Anh nhưng họ khá giỏi trong việc nhận ra ông thầy nào ăn nói hay hơn hoặc dạy hay hơn. Đặc biệt họ cho rằng đồng tiền họ trả phải được đánh đổi bằng sự phục vụ của ông thấy giáo như một người khách đi massage hoặc một người thực khách trong một quán ăn vậy. Họ quên rằng một số lớn thầy giáo có sĩ diện có cái tâm có cái kinh nghiệm học và cái trách nhiệm dạy của họ. Tôi bỏ nhiều giờ để điểm lại những học trò đã bỏ tôi bất thình lình và tôi có thể rút ra những bài học cho riêng tôi. Nhưng dẩu sao các cá biệt đó không thể đem đi so sánh được, áp dụng được.
      Tôi trình bày với học trò những kinh nghiệm tôi tự học, những khám phá của tôi về việc hiểu biết văn phạm thật nhanh và tôi đối với họ vừa như một phụ huynh nghiêm khắc, vui tính, tận tuỵ, và công bằng vừa như một đàn anh đích thực. Tôi so sánh cái khó của ngôn ngữ. Tôi chứng minh cái sai của các bài báo tiếng Việt. Tôi -theo cách ấy- có thể thành nhà ngôn ngữ học mất thôi. Tôi kể cho họ nghe những tấm gương xấu và tốt, những cách dạy và học Anh Văn ở trung học. Tôi cho họ biết tôi có cách riêng để tồn tại và tôi cũng đã và đang làm nên chuyện. Tôi nhủ lòng nhiều lần rằng:
“Tại sao họ bỏ ta? Tại sao họ không hiểu điều ta đã làm tinh giản dể hiểu nhất? Tại sao ta không giữ được đứa học trò này? Tại sao ta đã không thế này hoặc thế khác?”
Tôi cũng đã nhiều lần tự an ủi,
“Cớ gì ta phải đi xét đoán những kẻ không biết điều biết chuyện.”
Cái chuyện cần biết nhất là việc học một ngôn ngữ đòi hỏi rất nhiều sự nổ lực cá nhân chứ không phải của do công lao của ông thầy dạy hoặc những cuốn sách, giáo trình cái thứ mà một nhóm người nào đó dựa trên một số kinh nghiệm nào đó xây dựng nên cho một nhóm học trò nhất định.   
   Sau khi đứng dạy những lớp mới và rất khó- Nhà Thờ, Chùa, Công Ty Xi Măng Hà Tiên, Đại Học Ngoại Thương & Ngân Hàng, Cao Đẳng Nghề Việt Mỹ, Bệnh Viện Bình Dân, mấy cán bộ trong ủy ban tỉnh, một nhóm Bác Sĩ Đại Học Y Dược hay một ông cha Phó quản hạt, tôi cảm thấy tự tin hơn rất nhiều. Sau khi phiên dịch cho bệnh viện vài lần, tôi dạn dĩ hẳn lên. Sau tiếp xúc với các giáo viên có vẻ hơn mình, các giáo viên ngoại quốc hoặc Việt kiều, tôi cảm thấy yên tâm, vững vàng hơn. Khi làm bài tập hoặc nghe viết đọc, tôi cảm thấy mình nhỏ bé hơn. Khi cùng nhóm học trò thiếu nhi hát các khúc hát ngắn do tôi viết lời, tôi thấy mình trẻ lại. Và khi tôi viết ra những gì tôi đã trải qua những điều tôi chiêm nghiệm được, tôi cảm thấy thảnh thơi nhẹ nhõm. Khi tôi xin việc tại Công Ty Bảo Hiểm Manulife ở Cần Thơ hoặc Prudential Finance ở Sài Gòn, tôi tự tin trả lời rằng,
“Từ một học sinh Nông Lâm Súc tôi thành thầy giáo, và từ một giáo viên xoàng, nay tôi có thể dạy đủ loại lớp và lên Sài Gòn dạy 7 trường trên Sài Gòn. Điều đó có thể chứng minh rằng tôi có thể làm được mọi chuyện tôi chọn hoặc muốn làm.”
Các thầy cô giáo ở Bảo Lộc ít nhiều gì cũng đã giúp tôi, đã tạo bên trong tôi cái chất sư phạm, cái lịch duyệt, cái bản lãnh cần có khi tôi đứng trước. Thầy Minh Híp, Thầy Hy Lèo, Thầy Bùi Tho, Thầy Vũ Thủy- triết học- và thầy Hùng Đô La đã khiến tôi nhớ họ mãi. Cô Nguyệt- Việt Văn, Cô Thành- Anh Văn- đã làm tôi thích học. Tôi hiểu và thông cảm khi thầy Lai Minh đỏ mặt, khi thầy Minh Híp nỗi cáu. Tôi thầm phục Thầy Tân, lịch sự, hết lòng, tha thiết khi giải thích câu văn này, ý nghĩa nọ. Tôi hiể tại sao thầy Niệm thường nhắc về trường Bảo Lộc. Mọi thầy cô giáo tôi đã học qua đều ghi nhận sự rỏ nét chuyên cần hết lòng của tôi. Các ông thầy đã phỏng vấn tôi trong những lần tôi thi ở Đ.H Từ Xa, đều thích cái cách tôi trò chuyện với họ, các câu tôi phúc đáp, thậm chí chất vấn họ nữa, thí dụ:
“Theo thầy, làm thế nào để dạy giỏi nhất?” hoặc,
“Sau bao nhiêu năm dạy học, điều gì khiến thấy, cô, theo đuổi nghề nghiệp đến ngày hôm nay?”
    Ít có ai trong số những giáo viên đang hành nghề đã từng học rất xa nhà, thất nghiệp, làm cầu thủ đá banh, thợ nấu rượu, thợ chụp hình dạo, thợ vẽ bảng hiệu và làm công nhân như tôi đã từng làm. Ít có ai trong số họ từng thức sớm khoảng 3:30 sáng ròng rả 20 năm trời để tập luyện. Ông thầy tôi, Thầy Chu Sĩ Lương, đã lấy tôi ra như là tấm gương cho nhiều học trò của thầy. Thầy Danh- nỗi tiếng ở Rạch Giá- thường đố học trò của ông ta xem họ có biết tôi đến khi ấy có bao nhiêu cuốn băng cassette không như là cách động viên họ tập nghe. Một ông bạn học lớn tuổi hơn đã sững sờ khi nghe tôi trả lời cái số lượng băng ấy. Đài VOA Special English cũng đã viết thư, đề ngày Mar 3, 1997, để cảm ơn tôi,
“We’re much impressed that you have recorded almost 200 tapes of English language teaching programs.”.  
   Tôi có lẻ giống như các thấy cô khác thích tâm tình, nhưng bằng Anh Văn. Tôi kể hết cho học trò nghe về cuộc đời tôi. Không một chút do dự, tôi chỉ cho họ những gì tôi chiêm nghiệm sau nhiều năm, cái chất xám và cảm tính của người thầy giáo. Không ngại công khó, tôi lục tung các bài nghe rắc rối nhưng rất đời, các trích đoạn hay nhất để dạy họ.
  Một vài lần, các học trò cũ chào tôi, nhắc một vài kỹ niệm họ ghi nhớ rất rỏ về tôi- ôm đàn vào lớp hát bài này- hay dạy họ hát một khúc hát nọ, đội berret, mang cái còng bằng đồng. Nhưng nếu có bị ai phỏng vấn tôi điều gì khiến tôi dạy học được đến ngày hôm nay, tôi sẻ trả lời ngay rằng,
“Ba năm học ở Bảo Lộc, cái cách dạy của các Thầy Cô trên đó và cái nhóm máu NLS của riêng tôi đã thật sự giúp tôi đấy .”