Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

ĐÊM GIÁNG SINH- NHƯ NGỌC



     Cả nhà của má nuôi tôi và nhất là Như Ngọc muốn tôi từ trường về chơi để đệm đàn cho họ hát “Jingle bells” nhưng  không ai biết rằng tôi sẽ phải ứa lệ khi tưởng tượng ra, ở trong một góc tối nào đó của căn chòi lá nhỏ bên bờ kinh Quản Thống, Sóc Xoài, mẹ ruột của tôi nằm trên chiếc chỏng tre thở dài buồn bả, chỉ mong cho trời mau sáng sớm để ra đồng.
     Đọc xong bức thư tôi phúc đáp bức thư nàng viết để trách cứ tôi, nàng đã bị shock. Tôi đã giải thích tại sao tôi đã không về tối Giáng Sinh như đã hứa. Nàng phải đạp xe rất lâu nhiều lần suốt con đường Nguyễn Du, suy nghĩ rất nhiều về những gì tôi đã viết, tại sao tôi thất hẹn và tại sao tôi đã trước đó nhận lời mẹ nàng về nhà nàng vào cuối tuần. Sau này, cô ta giải thích,
“Anh đã viết rằng những ai đang thừa mứa tình yêu của mẹ làm sao thấu hiểu cái  lo ngại khi chỉ thấy mẹ của họ hơi chau mày vì họ không được vui. Những người con được mẹ ôm ấp thương yêu làm sao hiểu được cái hạnh phúc đơn giản của kẻ bất hạnh khi chỉ được bà mẹ vuốt trên gò má, vổ nhẹ lên lưng hoặc chỉ nhà một cái lườm đơn giản. ”
Mọi người không biết rằng má của tôi nuôi không thể nào bình tỉnh khi nhận ra cái giọt lệ nào đó của tôi vừa ứa ra. Những ai đang rất hạnh phúc đâu có thể hiểu được sự bất hạnh của kẻ khác. Người có một kho vàng bạc châu báu không thể mải mai xúc động khi thấy ai đó, như tôi chẳng hạn, mất một đồng xu nhỏ. Tôi là người luôn luôn sợ mất cái đồng xu nhỏ ấy.
    Đã hứa hôn với tôi 7 năm, Như Ngọc đã khiến tôi thành người rắn rỏi, dầy dạn mùi cay đắng, đã làm thay đổi nhân cách của tôi một cách xâu sắc và nàng là người đã một cách vô tình khiến tôi thương yêu mẹ tôi hơn. Chính nàng đã khiến tôi tin rằng hạnh phúc đôi lứa chỉ có khi cả hai tự nguyện cùng nhìn về một hướng
    Từ lần đầu gặp mặt, trong phòng của bà mẹ nuôi của tôi tại sài Gòn đầu tháng 3 năm 1976, cô ta mang cho tôi ly nước chanh và nhỏ nhẹ nói với tôi,
“Má kể cho cả nhà nghe về anh mấy ngày nay. Má nói anh chơi đàn hay lắm.”
Đến một ngày kia- cũng đầu tháng 3 năm 1983 -ngày cuối cùng, sau 7 năm- cùng chung với nhau trên giường, bên hiên một căn nhà nhỏ, nơi tôi sống như một gia sư ở Rạch Giá, cô chẳng mang cho tôi cái gì cả nhưng to tiếng với tôi,
“Anh không chịu tìm chuyến nào đi đại đi. Anh không chịu vô đạo. Anh không làm gi hết cả…”
Sau khi đưa cô ta lên xe đò về, tôi trở về nơi tôi tạm cư ngụ, viết cho nàng một bức thư dài để từ hôn và sau đó viết liền cho má nuôi tôi một bức thư để giải thích. Chưa có ai đã từng nói với tôi như thế cả. Không nhận được hồi âm của cả hai người, tôi cho rằng mọi việc đã xong. Trong hai bức thư, tôi đều nhấn mạnh rằng,
“Ai cũng mưu tìm hạnh phúc và tìm cách đạt được mục đích của cuộc đời mình.”
Với cô ta, vị hôn thê cũ, tôi đã viết,
“Như Ngọc, em muốn sống ở nước ngoài và luôn tin rằng có một thiên đường ở bên ấy trong khi anh chỉ mong sống trong một thiên đường nhỏ bé với mẹ anh .”
Riêng với bà má nuôi, tôi đã cẩn thận viết rằng,
“Thưa má, má luôn luôn muốn các con của má hạnh phúc, phải không má? Buồn thay, con không làm cho Như Ngọc hạnh phúc và con cũng nhận ra rằng Ngọc khó lòng có hạnh phúc nếu sống với con lâu dài.”
Tôi ngẫm nghĩ một lúc lâu và viết tiếp,
“Chúa dạy ta phải cố yêu thương kẻ không thể thương được. Ngọc đã không còn yêu thương con và Ngọc không thể nào làm theo lời Chúa. Con biết vậy nên con… mới viết bức thư này.”
             Tôi- một sinh viên nghèo, với một gia đình không hạnh phúc, đã yêu nàng như yêu một thiếu nữ, thiếu thốn nhiều thứ như tôi chứ không phải như một cô con gái út của một gia đình hạnh phúc trung lưu ở Sài Gòn. Sau khi tôi tỏ tình, nàng và tôi đã luân phiên hôn nhau suốt đoạn đường từ Vũng Tàu về Sài Gòn. Nàng và tôi cũng đã luân phiên khuyên bảo nhau đã chùi nước mắt cho nhau. Chúng tôi đã nhiều lần khuyên bảo nhau. Cô nàng đã nhiều lần giận tôi như có thể giết chết tôi nhưng cũng có nhiều lần nàng nói mềm mỏng với tôi như một người vợ hiền. Sau khi được mẹ nàng- vừa là bà má nuôi của tôi- đã làm đám hứa hôn, tôi đã xin phép được ngủ chung vời nàng. Chúng tôi được chính quyền ở phường Đa Kao quận 3 Sài Gòn, công ty của tôi ở Rạch Giá coi như là vợ chồng. Biết bao nhiêu bạn bè Nông Lâm Súc trên Đà Lạt, nhất là Long Kh’mer và vợ nó, Quỳnh, đã hết lời khen ngợi nàng trong một tuần nàng ở trên đó với tôi. Biết bao nhiêu người ở Rạch Giá và cũng rất nhiều bạn học của tôi trên đại học những tưởng tôi sẽ rất hạnh phúc với nàng- một thiếu nữ xinh đẹp, có học thức, gốc Sài Gòn từ một gia đình trung lưu khá giả tử tế.
              Tại Rạch Giá, nơi nàng cư ngụ gần nửa năm, từ trước Trung Thu năm đó- 1980, nàng đã nhận ra cái ý nghĩa của sự độc lập, của tình đôi lứa, sự chia sẻ công việc, những nỗi vui buồn. Nàng đã thú nhận với tôi rằng đó là thời gian nàng thật sự cảm thấy hạnh phúc bên tôi hoặc trong những lần về thăm mẹ tôi trong xã Sóc Xoài . Không ai trong số thân nhân, bạn học của nàng có thể tin rằng nàng đã cùng tôi bán sữa đậu nành gần nữa năm để sinh sống một cách đầm ấm hạnh phúc cho đến một hôm nàng đột ngột muốn ra đi thêm một lần nữa.
             Nhà Thờ Chánh Tòa Rạch Giá, một công trình kiến trúc đẹp mắt bằng gạch đỏ vào năm 1882, đã đi vào lịch sử của Giáo Hội từ cuối thế kỷ XVII.  Nhà Thờ Tháp Cụt và Tháp Nhọn năm 1934 do một thừa sai Bali xây dựng với của hồi môn của cha mẹ chia cho. Chiều thứ bảy hằng tuần tôi theo nàng đi lễ tại đây. Như Ngọc đã hỏi cha phó cho tôi học đạo. Tôi làm theo những yêu cầu của cô nàng như một vị hôn phu hiền hậu. Ít ai ở đây ngờ rằng trong lòng nàng luôn có những ngọn sóng ngầm.
              Sau khi cùng tôi đi lễ Noel tại nhà thờ Chánh Tòa Rạch Giá, lần đầu tiên xa nhà, trong căn phòng riêng của tiệm Đức Ký 125 Trần Phú, đã bị tịch thu, nơi tôi đang được Công Ty giao cho ở tạm, không có tiếng nhạc Giáng Sinh, không có trang hoàng, không có revillion, không có một người thân nào cả, nàng đã rơm rớm nước mắt khi hỏi tôi,
          “Hồi nảy trong Thánh lễ, anh đã cầu nguyện điều gì?”
          Đã có quá nhiều điều ước nguyện, tôi đáp theo cái cách mà nàng muốn nghe,
          “Anh cầu cho em ra đi an toàn.”
          Nàng lên giọng hỏi lại  ngay,
          “Anh có biết em đã nguyện ước gì không?”
          Tôi nhìn nàng yên lặng,
          “Em ước mình có thể đi chung với nhau, biến mất cùng một lúc với nhau và…”
          Tôi chợt ôm ghì nàng vào lòng. Ít khi nào người thiếu nữ cứng rắn này khóc nhiều như đêm hôm ấy. Chưa có hôm nào đặc biệt với nàng như đêm Giáng Sinh năm ấy. Chưa bao giờ tôi thấy tôi yêu nàng nhiều như lúc ấy. Tôi hiện không mất gì so với  một điều rất to lớn tôi hiện và để giử gìn- mẹ ruột của tôi. Sau hơn 5 năm, hơn 10 lần ra đi trong những chuyến vượt biển khá quy mô, mất mát gần 70 cây vàng đặt cọc hay cho chủ tàu vay mượn, Như Ngọc hiện bị một nỗi ám ảnh, một tổn thương quá nặng nề. Nàng luôn tự xem như là người đã mất tất cả.  
              Chúa có thể đã thấu hiểu lòng nàng và đêm nay Chúa Hài Đồng sẽ mang đến nàng điều tốt lành. Khi tôi chưa tìm ra một cách giải quyết thỏa đáng, nàng vẫn chưa có đủ may mắn để thực hiện ý nguyện mạnh mẻ của nàng, đêm Giáng Sinh ấy thật quá đặc biệt đối với hai đứa tôi.
               
                                                                                               Rạch Giá 23- 12- 2012
                                                                                                   Thành Xì- TL-71

         
   

GIÁNG SINH CỦA TÔI Ở BẢO LỘC

                   

Vào ngày 23 tháng 12 năm 1975, nhận được học bổng đầu tiên- 19 đồng, tôi cũng nhận được lịch thi đấu cho giải bóng đá của Bộ Đại Học, “ Mùa Xuân 75.” Vừa mừng vừa lo và vừa thèm nhớ bạn bè, tôi đã âm thầm ra xa lộ lúc 8 giờ sáng ngày hôm sau để đón xe đi Bảo Lộc.
      Tôi là người duy nhất trong “băng Cần Thơ” được tiếp tục học Đại Học. Tôi may mắn, và tôi tận dụng vận may và khả năng của tôi để thành thủ môn của đội bóng đá trường Đ.H. Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức. Vì vừa trải qua 3 môn thi học kỳ, hôm ấy rất nhiều sinh viên về quê, về nơi nào đó để đón Giáng sinh trong khi tôi trên đường về Bảo Lộc- nơi tôi xem như quê hương thứ hai của tôi. Xa lộ hôm ấy không có nhiều xe. Thiên hạ bận bịu việc trong nhà hay họ lo chuẩn bị cho đêm Giáng Sinh lần đầu tiên sau ngày 30 tháng 4. Trước tiên, tôi chợt nhớ đến Hải Bầu, người tôi đã đưa về Cần Thơ để dạy kèm để hắn có thể thi tú tài tự do tại Bình Dương. Có theo Hải về nhà một lần năm ngoái, nên tôi còn nhớ rỏ làm sao để đến nhà hắn. Tôi bảo xe ghé lại nhà thờ xứ Dốc Mơ- Gia Kiệm khi trời nắng nóng, gần 11 giờ. Hớn hở khi đến nhà hắn, nhưng tôi sững sờ nhận ra gương mặt tiều tuỵ đau khổ của mẹ nó người đã thống thiết kể lể với tôi ngay khi tôi bước chân vào nhà,
      Mấy hôm sau ngày giải phóng, công an huyện đến tìm nó mà cứ bảo là tìm “giáo sư Hải”. Họ cứ đưa nó đi và đến nay nó biệt tăm. Nhà tôi đi cải tạo còn được thăm nuôi. Còn anh Hải thì… lạy Chúa tôi!”.
Tôi chẳng biết phải nói làm sao nữa nhưng tôi cương định lời từ chối khi được bà mời ở lại hôm đó. Tôi trở ra đường, buồn cho Hải Bầu, buồn cho bao nhiêu kẻ gặp vận hoạn nạn, gặp vận đen đủi kỳ hoặc, không thể giải thích nỗi như vậy. Chờ bên lề đường một mình, tôi quyết định thật nhanh. Nếu có xe về Sài Gòn, tôi đi về lại Thủ Đức nhưng nếu có xe lên Bảo Lộc, tôi vọt lên đó- dù chỉ có tối hôm nay thôi! Chưa uống xong ly cà phê, từ xa tôi nhận ra một xe chạy từ hướng Sài Gòn lên B.L. Tôi chen lên xe và chợt vui lên như bất cứ lần nào tôi được đi Bảo Lộc. Chuyến xe duy nhất này dừng rước bất cứ hành khách nào như tôi. Mọi người đều có chuyện riêng để đi ngày hôm ấy. Tôi đi chỉ để gặp Long Kh’mer sau khi không thăm được Hải Bầu.
     Tôi còn nhớ hoài nét mặt đau khổ của bà mẹ của Hải Bầu. Tôi chợt nhớ đến mẹ tôi. Tôi không biết so sánh thế nào nhưng chắc mẹ tôi có nhiều niềm vui vì tôi hơn nhiều người mẹ khác. Tôi hình dung ra ngay gương mặt của Má Năm- mẹ của Long người suốt cuộc đời vất vả chỉ cho chồng con mà thôi. Tôi nhớ nét nhăn trên gương mặt gầy guộc của Mạ. Tôi mong ngóng đến từng kí lô mét đường một. Chưa khi nào tôi có chuyến đi  như thế này. Ôi đến khu rừng Giả Tỵ rồi Định Quán rồi. Tôi bồn chồn nôn nao như một gã đi ly hương trên đường về quê, như một tay vừa ra tù trên đường về đoàn tụ gia đình, như một chàng trai trẻ về thăm quê hương của cô bạn gái mà chàng yêu quý. Khi xe qua đèo chuối, tôi nhớ lại ngày đầu tiên đón xe lên Bảo Lộc, tháng 6, 1971. Trời mưa dầm lạnh lẻo. Xe như chạy vào một khu rừng rậm. Mưa to làm mờ hết đường chạy. Mọi người trên xe như nghẹt thở bất động. Đường đèo vắng xe một cách lạ lùng. Ít có ai đi đâu trong ngày cận kề Noel như thế này sao? Tiếng máy xe nỗ giòn giã như để khẳng định với những hành khách rằng chuyến đi sẽ đến đích, chuyến xe này chắc chắn sẽ đến nơi an toàn. Dẩu cho chỉ mặc cái áo sơ mi xuềnh xoàng, trong trời tháng 12 khô, lạnh, nhưng tôi thấy như bình thường. Điều tôi mong đợi là gặp được Long Kh’mer để trò chyện với nó để nghe nó kể lể cho thoả lòng của cả hai đứa tôi.    
Khi xe lên Đèo Bảo Lộc, tôi như nhiều lần khác, cảm thấy nhẹ nhõm. Cái cảm giác vui sướng lâng lâng của chàng học trò được điểm cao, được lời khen ngợi của cô thầy khó tính nào đó. Khoảng đường dắt lên đèo Bảo Lộc bỗng đẹp hơn, trơn láng hơn. Lòng tôi thênh thang nhẹ nhàng như chiếc xe đang chạy thật êm ái chuẩn bị lên đèo. Cái đoạn đường đèo 10 kilô mét này đặc biệt ý nghĩa vì nó gây cho hành khách sự chuẩn bị, sự toan tính những gì họ sẽ làm hoặc sẽ xảy ra đến họ trên Bảo Lộc. Tôi dự tính gặp Long Kh’mer và chỉ có thế thôi. Điều gì có thể xảy ra với tôi nhỉ. Có ai biết được Long cũng bị một chuyện xui rủi nào, một tai nạn nào. Khi ấy không có cách nào để báo cho hắn biết rằng tôi sắp lên. Khi ấy việc gặp nhau có rất nhiều ý nghĩa.
  Tượng đài Đức Mẹ trên đèo là một nơi dừng chân lý tưởng đối với khách tham quan hoặc cho những ai cần cầu xin điều gì. Vừa nhìn thấy đài Đức Mẹ xong, tôi liền nghĩ đến việc Long Kh’mer đi hành hương trong lúc ấy với nhóm thanh niên ca đoàn hay hướng đạo gì gì đó. Xe chầm chậm leo đèo, vượt qua nhiều đoạn cua quẹo. Tôi nhìn thật kỹ lưỡng một xe đò nhỏ đang đậu và số người đang dừng chân ở khu đài Đức Mẹ. Cảnh vật vẫn thế nhưng tình cảnh nay đã khác. Lòng người có thể vẫn thế nhưng trong lúc mà cái ăn cái mặc, cái cảm giác bình an đơn giản nhất có thể khác đi nhiều. Tôi không nhìn thấy có Long trong nhóm khách viếng Tượng Đức Mẹ. Tôi nhẩm đếm từng khúc cua trên đường. Khúc cua thứ mười bốn là Miếu Ba Cô. Xe vẫn cứ tiến tới như tôi cũng vẫn cố hy vọng. Tính từ khi xe vừa qua cua quẹo thứ nhì, tôi nhận ra ngay cây đàn guita quen thuộc và người mang nó trên vai, Bình Bon- Công Thôn- 72. Tôi nhìn chầm chập vào nhóm thanh niên đang đi bộ phía lề phải để mong tìm thấy người tôi muốn gặp. Xe cứ tiến đến cua quẹo thứ ba, thứ tư. Tôi cứ dõi mắt tìm hắn. Linh cảm rằng hắn thế nào cũng có mặt trong nhóm thanh niên thanh nữ này, khiến tôi chồm người ra cửa sau, ngay mặt ra ngoài để nhìn rỏ hơn. Đến cua quẹo thứ mười hai tôi nhận ngay ra Long Kh’mer trong một nhóm hơn mười thanh niên. Tôi kêu tên hắn một cách thảng thốt và hắn bật bắn người khi nghe tiếng gọi của tôi. Chiếc xe vừa sắp qua hết khúc cua cuối cùng để lao thẳng về Bảo Lộc là lúc tôi kêu dừng xe. Chắc gã tài xế đó chưa bao giờ phải dừng vào cái lúc mà ai cũng mong xe chạy thật ngon trớn. Cái dốc xe vừa chạy qua không cao lắm. Vừa thật sự lấy được thăng bằng sau khi nhảy xuống xe, tôi vừa chạy hấp tấp ngược về cái dốc để mong gặp được Long càng nhanh càng tốt.
Long Kh’mer vừa chạy lên từ phái dốc bên kia vừa kêu tên tôi thật to. Không có một đạo diển nào nghĩ ra cái pha mà hai đứa tôi gặp nhau như vậy và không có diển viên nào có thể làm được như thế. Chúng tôi ôm nhau, trong hơi thở hổn hển, trên một đoạn đường trống trải nhưng trong lòng hai đứa tôi đầy ắp biết bao là niềm vui. Long nắm chặt tay tôi, cười thật tươi. Cái răng khểnh bên phải của nó như cũng lên tiến chào hỏi tôi. Hai bàn tay Long trơn ướt lạnh. Trời hanh khô nhưng hai đứa tôi thấy như đang đội một cơn mưa phùn thật nhẹ. Trời dần ngã màu xẩm tối khi chúng tôi thấy có ánh sáng lên trong lòng. Chúng tôi cần có nhau như người đi lễ cần nhà thờ, như người cần xưng tội cần có cha ngồi nghe những lời khó nói ra nhất. Tại sao người ta không kề cận nhau, lắng nghe, dung thứ, khuyên bảo nhau. Tại sao người ta cứ phải liên tiếp bài kích nhau, vạch ra những lỗi lầm to nhỏ để bạ thấp nhau. Tại sao họ luôn bận tâm đến việc làm cho người khác phải toan tính , phải che đậy, dối trá vì phải tìm ra câu biện hộ này, lời giải thích bâng quơ nọ. Hai đứa tôi chỉ có kể lể, tâm tình, nghe ngóng và chỉ vậy thôi cũng đủ cho cả hai, vốn đã đau, buồn, tủi bất toại, bất ổn và bất bình.
   Con đường từ đấy về vắng vẻ trơ trọi, hai bên đường nhà nhà đóng cửa im ỉm,  nhưng chúng tôi thấy đầy ắp niềm vui, một niềm vui rất lạ lùng. Bất kể điều gì xảy ra với chúng tôi cũng đều không quan trọng vì chúng tôi vừa gặp được nhau rồi. Đêm mai người ta vui Giáng Sinh. Đêm nay Long Kh’mer vui hội ngộ trên đường.   
Chúa giáng trần mang đến sự bình an cứu rỗi. Tôi lên đây mang đến Long Kh’mer một niềm vui đơn giản. Long và họ vừa đi thăm đài Đức Mẹ về. Tôi vừa đi thăm gia đình Hải Bầu và gặp mẹ hắn. Sự mất mát, đau khổ, trông đợi, và thất vọng như là những thứ ai cũng có, ai cũng phải gánh chịu. Sự bình an, hạnh phúc, những thành tựu và những điều tốt đẹp là những thứ không phải ai cũng có thể có được. Hơn hẳn những người bạn tôi- còn đi học, còn có nơi để dung thân, và còn có một tương lai đơn sơ nhỏ nhắn- tôi muốn đem lên đây chia cho Long một ít. Tôi muốn mang lên Bảo Lộc một nữa của cái tôi đang có. Tôi muốn kể lể cho nhiều người ở trên Bảo Lộc này sự thật về tôi, về cái ân sủng, may mắn, cái cơ hội mà sẽ khiến họ vui mừng hoặc ganh tị, lo lắng hoặc thư giản, hoặc chúc mừng tôi hoặc thèm thuồng được có những điều như vậy.
   Kề vai tôi, Long đưa tôi về đến nhà lúc trời tối đen. Chúng tôi ăn cơm với chị Tư rồi ra quán để thăm Má Năm. Chúng tôi đã có một buổi tối bình an, đẹp đẽ như nhiều người hằng mong đợi- một buổi tối trước ngày Chúa giáng sinh.
                                                                             Rạch Giá 8- 12- 2010
                                               Lương Ngọc Thành- Thành Xì TL-71                
   

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

TÔI HIỆN MUỐN GÌ


                                        

   Bắt chước nhạc sĩ Lê Hựu Hà người đã viết bài hát “Tôi muốn” để bày tỏ những điều ông ước muốn, tôi viết ra những dòng cũng chỉ mong kể cho những đồng môn, những ai đọc bài này những điều tôi hiện đang muốn gì.
    Là một người bình thường, tôi có những mơ ước và khả năng thông thường nhưng đang bị những điều bất thường. Tôi khó tính ư? Nếu không như thế, tôi không thể nào là tôi bây giờ được. Tôi nóng tính, thường rầy mắng khiến học trò bỏ học, dẩn đến việc thu nhập thấp và dẩn tới việc đứa con gái chán học. Chẳng lẻ gần 24 năm dạy học của tôi không có ý nghĩa gì sao? Thế tiếng Anh của con trai tôi đến nay chẳng nói lên được điều gì à! Thế bao nhiêu năm nay tôi đã làm gì cho cái gia đình này. Thế việc tôi lên Sài Gòn kiếm cơm gần một năm rưỡi xem như chuyện tầm phào chắc. Thế việc tôi đến nay học tập 360 ngày một năm hằng sáng sớm suốt 24 năm nay không nói lên được điều gì cả hay sao? Trong hơn 400 truyện ngắn viết ra đến nay, tôi bộc lộ khá rỏ nét cái chân tướng, “cái bản ngã”, cái thầm kín của tôi rồi. Nếu tôi có đột ngột ra đi, những bài viết ấy nên được giử lại.
   Giống như nhạc sĩ Lê Hựu Hà, tôi nghĩ đến.
“Tôi muốn mọi người biết thương nhau
Không oán ghét không gây hận sầu.”
   Tương tự khoảnh khắc tốt đẹp trước đây, tôi ngân nga,
“Như hạnh phúc thoáng qua mất rồi
Giờ đâu còn tìm được nét vui…”
   Tôi có đi nhiều hay không? Kê ra một danh sách các chuyến đi trong năm nay, tôi đã đi 8 chuyến và đã từ chối không đi 7 chuyến khác. Tôi phải đi những chuyến “bất khả chối từ.” từ lời mời của 3 nhóm bạn học xa, bà con trên Sài Gòn. Tôi ước chi họ qua đời hết đi để tôi không còn có ai mời đi đâu nữa. Xong việc là tôi về ngay. Nhận rất ít tiền của vợ vì tôi thừa biết mức thu nhập, chuyện tiêu xài phải thế nào. Tôi bị hàm oan. Có một cách mà tôi đã bàn bạc là từ nay là vợ con tôi cứ mặt thay tôi đi. Tôi đề nghị,
“Ai có hỏi thì bảo với họ rằng tôi bị tê liệt hay bệnh hoạn gì đó.”
    Lần tôi phải mang cây đàn ra Phú Quốc theo yêu cầu của Sáu Của, một thằng bạn đang tị nạn ngoài đó, có thể là chuyến đi đẹp nhất trong đời tôi. Biết đó là ngày sinh nhật lần thứ 57, vợ tôi trao cho tôi cái vé tàu và tôi chỉ nhận 100 ngàn đồng vì hắn đã hứa mua vé cho tôi về rồi còn gì. Chiều đến, tôi nhận được tin nhắn chúc mừng sinh nhật của ba người thân yêu nhất. Ôi thật hạnh phúc cho tôi! Vài bằng hữu của bạn tôi đã giử chân tôi lại Phú Quốc một ngày. Ở tại nhà một ông anh mới quen gần bải biển đẹp, tắm biển một mình, được một tiệc đơn sơ nhưng nhiều niềm vui của những người xa sứ ở Phú Quốc thiết đải, nghe tin con trai tôi đồng ý qua Úc học, nhận được hai lời mời dạy online, tôi vui hơn bao giờ hết. Trên tàu về, làm quen với một cặp tình nhân người Đức, làm nghề giáo, lần đầu qua Việt Nam, tôi thấy mình sôi động, trẻ trung lại rất nhiều.
    Cuối năm rồi, tôi âm thầm cắt bài đăng tuyển sinh lớp học thạc sĩ của trường ĐH Trà Vinh, dán vào quyển sổ như để dặn lòng, “cố đi học nhé.” Buồn thay, họ từ chối tôi vì, “tôi không tốt nghiệp hệ chính quy nếu tôi muốn học Anh Văn và tôi không phải là hiệu phó nếu tôi muốn theo ngành giảng dạy.”
    Vừa rồi tình cờ gặp ông hiệu trưởng trẻ tuổi của trường ĐH An Giang, tôi lóe lên ý định qua đó học thạc sĩ Anh Văn. Tôi giản dị muốn có học vị đó để có thể xin làm một chân gì đó trong lĩnh vực giáo dục và tôi làm ai đó tin tôi hơn. Thế thôi! Tôi tâm sự với một người quen cũ một cách rất chân tình, rất tự nhiên,
“Có lẻ tôi âm thầm xin chị tôi một ít để đóng học phí. Có lẻ tôi sẽ qua An Giang ở trọ để vừa theo học vừa kiếm việc làm.”
    Tôi luôn tin rằng, “học là cách tốt nhất, sự đầu tư đúng đắn nhất.”
Khi được anh chị tôi rủ tôi đi du lịch nước ngoài, tôi tự nhủ,
“Thật là lảng phí nhất và nhất là tôi chẳng có một chút hứng thú gì về chuyện đó.”
Khi nhắc đến thằng bạn học bên Úc, có 100 hectare đất nông nghiệp, tôi nói nửa đùa nửa thật với ông anh rể,
“Anh hỏi thằng Hét lảnh em qua làm lao động kiếm tiền vì lúc này em dạy ít quá.”
Tôi luôn mong muốn làm việc cho cả nhà chứ không phải thụ hưởng cá nhân.
Thế Hét Quắn mong muốn gì nhỉ? Hắn ăn chay trường, theo Phật. Hắn không có con. Hắn không có mục tiêu học tập gì cả. Vậy hắn đang muốn gì? Có thể hắn còn muốn giúp các em, cháu, vài thằng bạn chăng? Tôi tin rằng điều hắn mong nhất là được theo chân Phật lên niết bàn.   
   Thắng Cọ lớp tôi, có 3 con gái đã có gia đình và sự nghiệp. Chúng và chồng đều hiếu thảo với Thắng Cọ. Ngoài việc đưa rước cháu ngoại, chơi đùa với chúng, Thắng Cọ không có một tí ưu phiền lo toan gì cả. Muốn đi, đâu bao lâu, cần thứ gì, Thắng Cọ luôn được toại nguyện.
   Mất ngủ 5 năm nay, Trọng Thỏ, trưởng lớp tôi, có lẻ chỉ muốn ngủ được một cách thông thường như mọi người mà thôi. Có vợ làm quan chức, có hai con học nước ngoài đỗ đạt như Trọng Thỏ đâu phải chuyện dể mấy ai có được.
   Vì có con mọn, Hậu Bào chắc chỉ muốn nhìn thấy đứa con gái duy nhất, năm nay mới 11 tuổi, lên xe hoa và bồng ẳm cháu ngoại. Nó bị tiểu đường và có vẻ tiều tụy nhưng bù lại nó có người vợ luôn sát cánh và anh chị em thông hiểu nó.
    Thằng Thọ Di Linh lớp tôi có đứa con gái mới vào đại học. Thằng con trai lớn, của hôn nhân trước, có vợ con nghề nghiệp khá ổn định. Chắc nó cũng chỉ lo giống như Hậu Bào mà thôi. Giờ nó thành một tay trong ban liên lạc lớp Thuỷ Lâm của tôi.
   Lộc Mập bên New Zealand, sắp sang cái tiệm bánh và sẽ về Việt Nam nghỉ hưu trong khi hai con gái, một còn đi học, đứa kia có chồng con, sống ổn định bên ấy.
   Tôi hiện đang muốn gì? Như mọi người, tôi chỉ muốn trước hết có sự thông hiểu, yêu thương của vợ con tôi. Nếu thằng con cần đi học nước ngoài, tôi cầm cố nhà. Con gái không học được với tôi, nó sẽ theo học với ai đó thôi. Tôi mong có thể được đi học thêm và làm thêm. Tôi mong đi dạy, đi làm ở đâu đó có thu nhập khá hơn có giờ làm việc nhiều hơn để tôi ít phải buồn hơn. Tôi mong những ai, đến nay biết tôi, biết thêm một điều ngắn gọn nữa,
“Tôi luôn mong được sống cuộc đời đầy đủ ý nghĩa.”
Khi trang hoàng cái phòng dạy học, trên góc bức trang hoa màu sắc, tôi đã ghi,
“Give it a try. Live a full life. Make it qualified.”
Tôi như muốn dặn dò người học và cho chính bản thân tôi,
“Thử sống một đời đầy đủ, chất lượng đi. Chẳng có mất thiệt gì đâu mà sợ!”
Hai năm nay tôi đã nghĩ đến việc hiến xác cho bệnh viện Y Dược. Gần đây tôi muốn đi làm xa để bày tỏ những điều tôi khám phá được về Anh Văn. Khi đang bận cất nhà trọ, tôi nhận điện của Liên, bạn gái cũ của Dũng Tiến. Liên mời tôi đi làm phụ tá cho giám đốc sân golf Long Thành. Thông Quắn cứ gọi tôi lên Sài Gòn dạy như Khuê đã từng rủ tôi qua Cần Thơ sống.
    Tại Ba Xe, người bác gái tuổi cao, ốm yếu, hiện sống một mình và cảm thấy thanh tịnh. Tôi, tuổi chưa cao, không ốm yếu, không thể nào sống một mình ư? Tôi không thể nào tìm ra sự thanh tịnh như bà bác người có vài lần tôi suýt buộc miệng gọi là “Má.”
                                             Rạch Giá ngày 25, tháng 10, 2012
                                                                         Thành Xì

Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

HỒNG HẠNH 3


                                          

  Hồng Hạnh người có nhiều nhan sắc nhưng cũng có lắm gian truân lại không thể nào quên tôi người ít cỏ vẻ đẹp nhưng có lắm duyên nợ với nàng.
   Tôi đang dạy tại Trung Tâm Ngoại Ngữ của ĐH. Ngoại Thương khi có dịp phải lên S.G kiếm sống. Tôi được một thầy giáo trẻ giới thiệu đi dạy cho IES, 173 Nguyễn Biểu, Q: 5. Trong lúc chờ giờ lên lớp, tôi làm quen với một cô giáo mới đến dạy nhưng có một tính cách và gương mặt rất quen thuộc. Giọng Mỹ của hai chúng tôi làm chúng tôi mau chóng thân thích nhau. Là Việt Kiều Mỹ, Andy, học vị thạc sĩ, có tiền lương hơn của tôi đến ba lần. Như trong một phim truyện, một hôm sau giờ dạy, Andy có người đến trường rước. Người phụ nữ ngồi sau vô lăng ấy bước ra khỏi xe, mở kính ra tươi cười chào tôi,
“What a small world!”
Andy không hiểu ý của mẹ nàng và tôi há hốc ra nhìn hai người phụ nữ.
“Anh không nhận ra em hả?”
Tôi gải đầu, bóp trán trong khi Andy nắm cánh tay mẹ nàng,
“What’s the hell going on, Mom?”
Mặc cho chúng tôi ngẩn ngơ, người phụ nữ sang trọng, trẻ đẹp, trang điểm thật khéo léo ấy nắm cánh tay tôi lay lay như làm cho tôi tỉnh táo hơn vậy,
“Hồng Hạnh nè.”
 Bất giác hai chúng tôi ôm nhau bỏ mặt cho Andy mỉm cười đứng nhìn và bao nhiêu cặp mắt khác của học trò đang chằm chập nhìn chúng tôi.
“Đây là người bạn học cũ của mẹ. Có lần mẹ bảo con là mẹ có thể đi Cần Thơ tìm thăm con nhớ ra chưa?”
“Oh, Wow, Bác Thành.”
Andy bắt tay tôi tự nhiên như một thanh niên tây phương. Hạnh nhắc tôi lấy xe gắn máy và chạy theo nàng về nhà. Tôi răm rắp ngoan ngoản làm theo người đàn bà sang trọng ấy.
   Trái đất thật nhỏ khi tôi gặp lại Hồng Hạnh. Căn nhà không sang trọng nhưng rất tiện nghi ấy là tài sản mà Hồng Hạnh được hưởng từ dạo tôi còn học trên Bảo Lộc. Cái Khách sạn Lâm Sơn trên Đà Lạt nay đã đổi chủ nhưng mẹ nàng quyết định giử lại căn nhà phố này nơi hai mẹ con Hạnh đã sống với rất nhiều biến cố, với nhiều tiếng cười và nước mắt.
    Tôi lúng túng khi trông thấy cái bàn ăn sang trọng chứa đầy các thức ăn trên đó. Người giúp việc nhả nhặn chào tôi và vội vàng lấy chai rượu vang đỏ trong tủ ly ra đặt nhẹ nhàng trên bàn. Khi Andy lên lầu thay đồ, Hồng Hạnh bảo tôi rửa mặt chuẩn bị ăn cơm chiều với hai mẹ con nàng.
“Anh Thành đâu ngờ gặp lại em, đúng không?”
Tôi lấy lại được bình tỉnh,
“Chuyện gì cũng có thể xảy ra mà. Mất tin tức nhau lâu quá rồi.”
“Em có nhờ mấy người quen đến tìm nhà mẹ anh. Dọn đi về rạch Giá phải không anh. Bên Mỹ, em có đọc trên white pages tìm tên anh. Có hai người trùng tên nhưng…”
Andy từ trên lầu xuống cắt ngang câu chuyện,
“Mom hôm nay vui quá há. Con phải đi ra ngoài với Jack rồi. Bác Thành tự nhiên nhen. Make yourself at home, OK?”
    Sau khi sanh Andy, Hồng Hạnh có một người chồng sĩ quan Mỹ. Được sống hạnh phúc vỏn vẹn một năm, Hồng Hạnh lại phải chia tay chồng trước ngày 30 tháng 4. Sau nhiều năm không liên lạc được, ông ta trở lại Việt Nam để bảo lảnh Hồng Hạnh và con gái. Hạnh lảnh được mẹ qua không bao lâu thì bà bị stroke rồi đột tử. Đưa mẹ về quê an táng xong, Andy muốn ở lại Việt Nam sinh sống nên Hạnh phải chạy qua Mỹ với chồng, chạy về Việt Nam với con.
    Hạnh ứa nước mắt khi kể sơ qua chuyện của nàng. Tôi vội nhắn tin cho con trai tôi để nó khỏi trông tôi về ăn cơm chiều. Hồng Hạnh vồn vả hỏi tôi,
“Anh lên đây hồi nào? Làm sao mà anh dạy được tiếng Anh hay quá vậy?Em nhớ là anh học Thủy Lâm mà. Anh dạy em nghen anh? Em đâu có nói được nhiều đâu anh?”
Tôi ngượng ngùng, bối rối như tôi đã từng trong cái chuyến đi Đà Lạt ngày nào,
“Anh tự học đấy thôi?”
“Thế anh lên đây rồi anh ở đâu?”
Hồng Hạnh cũng có vài nếp nhăn ở 2 khóe mắt khi nàng chau mày hỏi tiếp,
“Thế anh ở đây với ai? Gia đình anh thế nào?”
“Anh với con trai ở một phòng trên lầu 9 khách sạn Công Đoàn.”
Tôi thật thà kể cho Hạnh nghe một cách tóm tắt những gì đã xảy ra sau khi tôi học xong trên Bảo Lộc, những gì xảy ra khi tôi về Rạch Giá và lý do tôi lên đây. Hồng Hạnh giục tôi ăn cơm cạn ly rượu và chúng tôi trò chuyện tự nhiên như đã từng hồi còn đi học. Nàng thường nhoẻn miệng cười, gắp thức ăn cho tôi và nghiên đầu lắng nghe những gì tôi kể.
“Anh cần gì cứ nói cho em biết nhen.”
Mặc dầu tự nhủ,“Cần gì ư? Tôi cần đúng 2 thứ thôi: một nơi ở và nhiều nơi dạy.”, tôi trả lời một cách khác,
“Anh chỉ mong sao mọi chuyện suông sẻ và anh có thể học thêm.”
“Anh hay thật. Lúc nào cũng nghe anh nhắc đến học.”
Chợt Hạnh có một cuộc gọi. Nàng ra hiệu phải nói chuyện riêng một tí,
Tôi nghe nàng trả lời vài câu tiếng Anh và tôi biết người bên đầu dây bên kia là chồng nàng. Tôi bước nhẹ ra sân trước và bị hơi choáng vì cái nóng và tiếng ồn.
   Có lẻ Hạnh và tôi có duyên nợ gì với nhau chăng? Nàng lại một lần nữa bảo tôi cho nàng biết tôi cần gì. Mẹ tôi đã yên nghỉ. Con tôi mới vào đại học với khoảng tiền học phí chị tôi giúp rồi. Tôi đang thật sự rất cần một sự giúp đở nữa. Tôi cần có một nơi để dạy. Tôi sẳn sàng đánh đổi nhiều thứ khác cho việc này trong khi mà vợ tôi ở dưới Rạch Giá réo gọi tôi hoặc trở về hoặc chia tay nhau và dĩ nhiên con tôi không thể nào yên tâm lo học, tôi không thoải mái đứng lớp được.
    “Anh ơi! Anh vào đây em nhờ tí nào.”
Tiếng gọi của Hồng Hạnh kéo tôi lại cái thực tại, cái thực tại rất éo le gây cấn.
                                                     (còn tiếp)
                                                                     Rạch Giá 28- 10- 2012
                                                                                                      Thành Xì- TL-71





      
  .

Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

QUYỂN TỰ ĐIỂN CHO CON


                         

Tôi đã từng rất nghèo khó nhưng có kẻ nào đó, đã đang làm trong Hải Quan phi trường Tân Sơn Nhất, vì nghèo khó hơn tôi, đã phải đánh tráo cuốn tự điển, giá trị 5 bảng Anh- một món quà tặng của đài BBC cho tôi sau khi họ chọn đọc truyện của tôi “Quyển tự điển cho con.”
     Vào khoảng tháng 9 năm 1985, với bằng đại học, làm giám sát công trường, tôi có một mức lương thấp kỷ lục- 50 đồng/ tháng- tương đương 25 gói thuốc lá đen hạng bét. Được vào làm một công ty bất kỳ nào đó là một thử thách, có thể tính bằng hàng chục chầu nhậu nhẹt, hàng chục lần thăm viếng với ngần ấy quà cáp. Tôi được mời gọi đi làm sau khi được chính họ - Sở Lâm Nghiệp Kiên Giang- đãi một tiệc lớn- sau khi tôi giúp họ đoạt giải vô địch tỉnh năm đó. Họ rất vui mừng khi nhận ra rằng tôi có bằng “Tú tài Lâm Nghiệp” từ trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc và bằng Đại học chính quy. Họ đã không màng đến việc tôi trước đó bị một công ty sa thải vì một chuyện tế nhị. Họ cũng đã không ngờ rằng khi tôi nhận lời chụp cho họ hai trận đá quan trọng đó, tôi đã đang nấu rượu lậu với gia đình bên vợ.
  Tôi được nhận vào làm cho Công Ty Lâm Sản, trong một công trường xây dựng 4 xưởng cưa, vỉ kèo bằng gỗ, 15x60 mét. Tôi dành nhiều thì giờ để đọc tài liệu vì tôi mong sao tôi không mắc sai phạm chuyên môn và học được một nghề phụ, nghề xây dựng. Không có một khoảng thu nhập gì thêm, tôi cảm thấy bế tắc. Một hôm tôi phải ứng tiền để mua một món đồ cho công trình. Tôi mượn một khoản tiền ít ỏi để mua một cái radio nhỏ. Từ đấy hằng đêm tôi nghe đài BBC để mong mở mang tầm nhìn ra bên ngoài, học được ít tiếng Anh và tôi bắt được một tin vui.
     “Chúng tôi mở mục truyện ngắn từ Việt Nam, từ các ngòi viết không chuyên và được gởi từ Việt Nam. Đặc biệt chúng tôi không để tâm đến chính kiến của người viết. Tác giả có truyện được chọn đọc, sẽ được chúng tôi gởi tặng một quyển tự điển Oxford.”
BBC công bố hằng đêm khoảng suốt một tháng. Hai vợ chồng tôi vui như trẻ sắp được quà. Chúng tôi bàn thảo một kế hoạch. Là thư ký đánh máy, cô ấy lén đánh từng trang từ bài viết tay của tôi. Là người chưa từng viết bao giờ, tôi bỏ rất nhiều thì giờ cho câu chuyện “đầu tay” ấy, dựa theo chuyện đứa cháu nhà nghèo nhưng hiếu học Anh Văn. Tôi viết về việc nó không có được một cuốn tự điển như e rằng cho con của chúng tôi sau này. Suốt 2 tuần công phu, người viết, kẻ đánh máy, chúng tôi hoàn tất phần đầu của cái giấc mơ nhận được quyển tự điển- đơn sơ, tội nghiệp. Tôi thầm nghĩ sau này thằng bé sẽ rất tự hào về cái món quà độc đáo đó. Tôi do dự cho đến khi nghe chuyện đầu tiên “Cái áo len” của một tác giả ở Đà Lạt. Vét tiền dành dụm, chúng tôi cố gởi bức thư tới đài BBC, bên trong có 4 trang giấy đánh máy. Bức thư có chứa một cái tình thương thân, thương con, thương cho cái nghèo khó nhưng hy vọng “được đền bù xứng đáng”.
     Tôi không hề nghĩ đến trị giá bằng tiền- 5 bảng Anh mà tôi luôn nghĩ đến cái giá trị tinh thần, cái giá trị nhân bản, cái giá trị của luật nhân quả. Thứ bảy hàng tuần, lúc 10:30 tối, tôi hồi hộp mong đợi tin vui. Và cái gì đến đã đến. Đêm hôm 27-7-1985, tôi nghe BBC công bố danh sách các chuyện sắp được đọc. Cái tiêu đề, cái cụm từ “ Quyển tự điển cho con” nghe họ đọc vừa ngọt ngào nhưng lại như một cơn lốc mạnh. Nó như bốc tôi lên cao, xoay tôi trên không trung và ném tôi xuống một cái ao đầm tăm tối với nước tanh tưởi, đen ngòm. Tôi sung sướng như một sinh viên vừa nghe tên mình được xướng lên trong ngày tốt nghiệp. Không giống như Archimedes đã kêu lên: “eureka”- “I have found it”- trần truồng chạy trên đường phố sau khi phám phá ra định luật nâng của nước, tôi đã phải nín câm, đôi khi còn lo sợ bị công an hỏi tội. Ngày tôi sẽ nhận được quyển tự điển của đài BBC có lẽ là ngày đáng ghi nhớ suốt đời tôi và nó chắc phải là món quà ý nghĩa nhất mà một người cha có thể tạo ra cho con của ông ta. 
      Hằng đêm thứ bảy chúng tôi hồi hộp nghe đọc các truyện với một niềm vui khôn tả. Và trong cái nhà lá nhỏ, dột nát tồi tàn ấy, tôi ấp ủ một giấc mơ. Nó đơn giản như cái giấc mơ lúc học xong ở Bảo Lộc về Trảng Bom học kiểm lâm của tôi trước đó 14 năm. Tôi mơ có một nghề phụ, mơ có một căn nhà nhỏ -như cái căn tôi đang ở nhờ đây vậy. Tôi mơ sẽ có một đứa con. Tôi mơ con tôi học giỏi- như tôi đã từng mơ hồi ở Bảo Lộc. Tôi mơ làm một người cha có trách nhiệm- người cha mà tôi đã và đang không có. Tôi mơ đến ngày trao tay cho con tôi cuốn tự điển “BBC” và bảo với nó rằng,
“Nếu ba tạo ra được cuốn tự điển này, con sẽ tạo ra hàng ngàn cuốn như thế, phải không con?”
     Giống như Carpenters hát bài Mr. Postman, ngày nào tôi cũng trông chờ ông phát thư- giống như thời đi học trên Bảo Lộc. Người phát thư đã không đến vì tôi mượn địa chỉ bên gia đình vợ tôi. Một ngày cuối năm, 24 tết năm đó, thằng cháu vợ hớn hở đạp xe đến với bịch quà từ đài BBC. Tôi ôm ghì nó và lì xì cho nó một ít tiền rồi hí hửng mở quà ra. Ngoài bìa phong bì to có ghi rỏ mọi thứ tôi hằng mong đợi. Nhưng bên trong, cùng kích thước ấy là một quyển sách cũ bằng tiếng Đức. Cái món quà của BBC, cái quyển tự điển tôi hằng mong đợi ấy đã bị đánh tráo.
Kẻ nào đó trong Hải Quan Tân Sơn Nhất, vì đã quá tham, quá thiếu tiền, đã cố tình đánh tráo quyển tự điển đó khi mà Bưu Điện tỉnh chính thức công nhận là họ đã nhận từ Sài Gòn về nguyên vẹn như thế.
      Tôi đã viết thư cho BBC hai lần để thỉnh cầu một quyển khác hoặc nhận được cái phiên bản truyện ngắn đó nhưng đã không nhận được hồi âm. Tôi e ngại rằng con tôi sẽ không tin vào chuyện này. Tôi e rằng tôi sẽ có thể làm vẫn đục cái niềm tin mà nó đặt vào tôi. Đánh mất niềm tin của một người, có thể được ví như đánh mất một cánh tay. Việc làm ai thất vọng có thể được xem như việc gây một vết thương trên thân thể họ. Tôi không trách kẻ đánh tráo cái quyển tự điển ấy nhiều bằng cái việc “đánh tráo tình người”.

      “Quyển tự điển cho con.” kể về một thằng học trò nhỏ, lớp 8, mồ côi cha. Là một công nhân bình thường, mẹ của thằng bé không lo được cho nó sách hay, vở tốt chứ nói gì đến quyển tự điển. Hằng ngày cậu bé chăm lo học và được chọn vào lớp chuyên Anh Văn. Được sắp hạng nhì trong lớp chuyên Anh, vì thằng bé thua hẳn người hạng nhất vể từ vựng. Xin mẹ một quyển tự điển chưa được, thằng bé phải mượn của mấy đứa bạn học trong lớp và thức khuya để tra từ vựng trong các đọc khó. Một đêm, mẹ con đều phải thức khuya để học. Thằng bé ngủ gục trên bàn học trong lúc mẹ nó đang chăm chú đọc một bài khó hiểu dài dòng. Chợt mẹ nó nghe tiếng con mình, “Mẹ cố tìm mua cho một quyển tự điển nghe mẹ, nghe mẹ.” Bà mẹ bật khóc và đến trước bàn thờ của người chồng quá cố để đốt một nén nhang và để tâm tình. Bất ngờ bà nhớ lại cái đồng hồ đo điện kế- cái công cụ mà ông ta đã từng rất cần, rất yêu quý. Mẹ đem nó đi bán và đã mua được một quyển tự điển cho con. Thằng bé thật vui khi nhận món quà và nó cảm động hơn nhiều khi đọc dòng chữ mẹ nó nắn nót viết trên trang đầu tiên, “Tặng con yêu của mẹ. Không có từ nào trong quyển tự điển này có thể giải thích được tình yêu của mẹ đâu con ạ!”
  Tôi quyết định giử gìn nó cho đến ngày hôm nay. Đến nay, câu chuyện xảy ra được 25 năm. Tôi thường tự hỏi, “Có ai muốn xem quyển tự điển bị đánh tráo đó không nhỉ?!”
  Tôi cứ xem đấy như một món đồ có giá trị, thật đấy!
                                                           Rạch Giá 18- 07-2012
                                                             Lương Ngọc Thành
                                                                                       

Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2012

DUONG VAN

  Giống như bất cứ ai có tên Vân, B.S Đường Vân gây nhiều ấn tượng đẹp vì các cách cô ta học trong nhóm B.S của khoa nội trong bệnh viện và sau đó người nữ bác sĩ này đã đến nhà tôi cùng với một nhóm khác học từ lúc 5 giờ sáng, 6 ngày một tuần.
     B.S Đường Vân không rất xinh đẹp nhưng rất duyên dáng và rất đáng được xem như còn độc thân. Ghi chép nhanh, viết chữ đẹp, học hành chăm chỉ nghiêm túc, người phụ nữ có một con ấy còn ngoan như một nữ sinh. Trong nhóm học tại nhà tôi, Đường Vân luôn đúng giờ, 5 giờ sáng. Hôm nào đến sớm hơn, người bác sĩ nữ trẻ trung ấy dừng xe xéo bên kia đường dỏi mắt nhìn qua nhà tôi để xem có ai sắp đến học không hoặc tôi có thể hủy lớp hôm ấy vì có ít người hoặc chỉ có mỗi một mình cô ấy học.
     Tôi vốn xem buổi học của học trò cũng là buổi học của chính tôi nên tôi chưa hề nghỉ một lớp nào vì bất cứ một lý do gì. Nghe băng cassette các bài tập TOEFL part A, B hoặc viết ra các bài của VOA special English vừa khó nhưng cũng vừa rất thực tế. Khi tôi yêu cầu cả lớp đọc lại những đọan hay hoặc thành ngữ đáng thuộc lòng, Đường Vân là cái tên tôi gọi đầu tiên.
Khi tôi khoe với cả lớp truyện ngắn thứ nhì tôi viết bằng tiếng Anh có tiêu đề là “Bích Vân”, bác sĩ Đường Vân là người trân trọng thích thú xin mượn đọc trước tất cả. Không những tự đọc, người cùng tên Vân này đã quảng cáo với vài vị nữ bác sĩ khác về cái truyện của tôi như thể cô ta muốn tuyên truyền một điều mới mẻ nữa về ông thầy Thành, vừa khó tánh vừa rất nhiệt tình và nhậy cảm.
   Tôi luôn yêu qúy việc học nên cũng yêu qúy bất cứ ai hiếu học. Một lần bị tôi chất vấn, bằng tiềng Anh, B.S Đường Vân cố gắng kể lể bằng tiếng Anh,
“Từ một xã nhỏ cằn cỗi tận Quy Nhơn, sau tang mẹ, ba em đưa đàn con vào Nam tìm nơi lập nghiệp. Cả nhà định cư tại Kinh 8 huyện Tân Hiệp, Rạch Giá. Nhà nghèo, không có chiếc xe đạp, em phải đi 5 cây số hằng ngày đến trường. Có mỗi 2 cái áo dài, em phải cố giữ áo trắng sạch để đở mất công giặt giũ nhiều. Bố không có dư để mua cho em một chiếc xe cũ và em cũng nhất quyết đi bộ đến trường.”
   Có vẻ nghẹn ngào, người học trò đáng khen ấy nói tiếp sau khi ai nấy vẫn giử yên lặng.
“Vào Đ.H. Y Khoa Cần Thơ, em chọn khoa gây mê hồi sức. Trong chiến trận ở bên Cambodia, vì là đòan viên tích cực, em bị điều động qua đó. Hiểm nguy, thiếu thốn không làm em sợ. Em chỉ lo sợ sự bất công, phi đạo lý. Một sĩ quan bộ đội trẻ cùng trong tổ công tác với em bên đó. Tụi em lập gia đình và hiện có một con trai. Em học Anh Văn vì mong có thể học được từ các B.S nước ngoài, từ các tài liệu mới và được một cơ hội đi tu nghiệp và bắt chước thầy, em muốn dạy được con em.”
   Lắng nghe xong, tôi hỏi cô ta một câu,
“If you had one wish, what would that be?”
“Nếu em có được một điều ước, điều đó là gì?”
Cô ấy hiểu ngay ý tôi và trả lời ngay,
“I wish my mom was still alive.”
“Em ước phải chi mẹ em còn sống.”
Câu trả lời ấy đã khiến tôi ứa nước mắt,
“So do I.”   
“Thầy cũng ước như thế.”
Một hôm tôi cho lớp xem một đọan video những câu hỏi chung kết Hoa Hậu thế giới năm 1996. Trích ra một câu trong số ấy, tôi hỏi Đường Vân,
“If you had your life over again, would you choose to be make or famale again, Why?”
“Nếu như em sống được kiếp sau, em chọn làm nam hay nữ một lần nữa?”
B.S Đường Vân vừa mỉm cười vừa trả lời ngay,
“I would choose to be a man.”
  Tôi quý mến hơn vị bác sĩ đáng mến ấy người chưa hề khiến tôi hoặc bất cứ ai trong lớp phải phật lòng. Bất cứ điều gì cô ta nghĩ và học cứ như thể cô ta là hiện thân của tôi trong những năm tôi học trên Bảo Lộc. Vì thường nghe tôi kể về B.V, về chuyện thời trung học, cô học trò bác sĩ cùng tên Vân đã hỏi tôi,
“Why didn’t you tell her how you felt about her?
“Tại sao thầy kể cho cô ấy nghe thầy cảm cô ấy như thế nào vậy?
Trước bao nhiêu học khác, tôi trả lời rỏ ràng,
“I would want to keep my love for her as pretty as if it was a painting.”
“Thầy muốn giử tình cảm dành cho cô ấy đẹp như một bức tranh.”
Người học trò vốn theo ngành Y khoa ấy và tôi- vốn học Thủy Lâm và ngành tổng hợp nông nghiệp đã góp phần làm cho cái lớp học ấy thêm đặc biệt. Hai cô giáo, một kế tóan ngân hàng, một học sinh lớp 10, một công nhân và 3 sinh viên Anh Văn học rất nghiêm túc và có tiến bộ. Tính điểm trên 20 câu TOEFL, tôi tập cho họ nghe hàng ngày. Đường Vân luôn luôn là người có số điểm cao nhất.
Cô học trò giỏi của tôi ấy thường cười mỉm chi e thẹn khi có ai khen ngợi.
“I’ve just got good luck. “Tại gặp may thôi.”
    Trong khi tôi dạy trên SG, gặp những lúc cần những chuyện gì về y khoa, những từ chuyên môn, tôi nhắn tin cho cô ta và Đường Vân nhanh chóng trả lời tôi. Thỉnh thỏang người học trò cũ ấy gọi điện thăm tôi. Một lần tôi nhắn tin hỏi cô ấy,
“Nếu có dịp về S.G làm việc hoặc được đi học thêm ở đâu đó, em có nhận lời không?”
Tôi nhận được một tin nhắn dài,
“Em còn rất ham học hỏi, ham được tiến bộ. Nhưng em còn phải lo cho hai con và nhất là chồng em đi làm xa, mỗi tuần về một lần.”
Nhân thể, cô ta hỏi tôi,
“Thầy có dự tính trở về không?”
Chính tôi cũng đã tự hỏi tôi nhiều lần,
“Nếu không thành đạt, tôi sẽ phải trở về thôi.”
   Từ khi tôi trở về, dù chưa có dịp gặp tôi, Đường Vân đã điện thoại thăm hỏi. Một hôm, vừa cười, cô ấy hỏi tôi,
“Thầy ơi! thầy thích nhảy đầm không? Em muốn giới thiệu thầy với một người có kinh nghiệm dạy…”
Tôi nhả nhặn trả lời,
“Tôi hằng ngày phải lo dạy và tự học. Có ít thời giờ rảnh rỗi, tôi phải lo viết lách nữa chứ. Bao giờ cần, tôi sẽ nhờ em dạy tôi nhảy nhé.”
 Có dịp gặp tôi trong một tiệc cưới vừa bước ra về, cô ta mừng rỡ điện thoại gọi tôi trở vào sảnh. Như người Tây phương, cô ấy bước tới đón dang tay ôm chào tôi. Đường Vân sau đó cụng ly bia với tôi, hỏi chuyện tôi cái cách của một học sinh nam thân thiết. Như một học trò trung học, trong khi bước ra về, cô ấy và tôi tâm tình thật tự nhiên như thể chúng tôi không hề ngại tiếng gièm pha.
    Không biết có phải theo luật nhân quả hay không? Tôi đã làm cho một số thầy cô quý mến thế nào, thì …nay học trò Đường Vân được tôi quý mến như thế ấy.
                                   

MINI STORY- EMILY


Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

TÌNH TRONG MƯA

  Nép sát vào tường đá lạnh ẩm, cô bé muốn cuộn tròn lại như con cuốn chiếu để trốn cái sự thật. Bên ngoài mưa vẫn rơi và không ai đóan biết chuyện gì sắp diển ra.
   Mưa có khi gây cho ta những suy nghĩ riêng tư thầm kín, mông lung xa xôi. Có khi mưa tẩy sạch những nhớp nhúa bẩn thỉu ngoài đời, những vất bẩn trong lòng. Có lúc mưa cũng gây ra những điều tốt đẹp nhưng lại có khi nó tạo nhiều vụ việc khó lường.
    Mưa tháng chín ở Bảo Lộc da diết, khiến cho ai đó đang buồn càng thêm buồn. Cái lạnh ẩm của Bảo Lộc như không màng đến ai đang bị lạnh lùng cô độc. Tôi vốn có một nỗi lo lắng khủng khiếp cho nên mưa không chỉ làm tăng thêm những nỗi buồn mà còn làm cho những cảm xúc của tôi về những ngày tháng trên đó thêm thắm thiết xâu đậm không thể nào quên.
  Ai mà biết được khi nào gặp được người tâm giao tri kỷ, kết cục của cuộc gặp gở ấy sẽ ra sao? Ở Bảo Lộc, ai mà biết được hôm nào có mưa, hôm nào không, khi nào dứt cơn mưa này, chừng nào sẽ có cơn mưa kế tiếp! Nào có những ai lường trước được những cảm giác họ sẽ có với người này nhưng không hề có tí gì với kẻ khác. Trong một tối mưa dầm, tôi đã dìu một cô gái về nhà và từ đó nàng có rất nhiều cảm tình rất riêng tư với tôi.
   Hay tin Mạnh Hùng- TL-73, đau, tôi đã cố tình ghé vào hẻm nhà thờ để thăm nó trong một tối mưa dầm tháng 9 năm 1973. Khuất sau vòm của nhà thờ là mảng tường đá dài. Ánh sáng từ đường và phía trước nhà thờ khiến nó thành một vùng thật tối. Con đường nhựa trở nên đen đủi hơn. Bên phía phải là một dãy lớp học, mái tole nằm sau một sân đất đỏ phẳng rộng. Có một tí ánh sáng từ phía trước nhà thờ hắt đưa đến một góc nhỏ của sân. Tôi rùng mình khi bước vào vùng tối trước mặt. Nào ai biết được họ sẽ đạp nhầm thứ gì trên một đoạn đường tối, gặp một bất trắc nào đó trên một đoạn đường đời? Nào ai hay biết có ai đó đang chờ họ, ai đó đang được Chúa sắp đặt để yêu thương che chở hay dìu dắt họ. Nào ai hay biết có một người cần họ, có một kẻ thương quý họ như họ hằng mong đợi vậy. Chúa đã dạy chúng ta,
“Cố yêu thương người không thể nào yêu thương được”Try to love the unlovable-. Tôi không tin vào điều ấy vì như lẻ thường tôi chỉ yêu thương người đáng thương, yêu những ai đáng yêu mà thôi.
“Anh ơi!”
Tôi giật bắn người khi chợt nghe một tiếng kêu yếu ớt từ trong vùng tối phía bức tường trái của nhà thờ.
“Anh ơi! Giúp em với.”
Tôi dần nhận ra tiếng kêu của một cô gái đang đứng co ro dựa vào tường trong cái áo len màu tím nhạt. Tôi bước đến phía cô gái, cố giữ bình tỉnh,
“Có việc gì thế… cô?”
Rất cố gắng kềm lại cái rung giọng do mưa lạnh, cô gái nói,
“Em chờ ở đây lâu… quá. Em nhờ anh đưa… em về nhà.”
Tôi ngỡ ngàng như thể tôi vừa bị tuyên phạt vì một cái tội danh rất lạ lùng, một cái án phạt thật bất ngờ.
“Tôi phải… phải ghé thăm thằng em tôi.”
“Nhà em gần đây thôi. Em lạnh và sợ lắm.”
Cố nhìn nàng trong bóng tối, tôi cố tìm ra một lời bào chửa,
“Nếu Chúa thử lòng ta, Ngài sẽ nhận ra rằng ta trong sạch vô tội.”
 “Mọi người chung quanh ta sẽ hiểu cho ta.
Mẹ tôi chắc không buồn phiền gì khi tôi được kêu gọi sự giúp đỡ từ một người đang lạnh giá cô độc như thế này.”
Tôi tự nhủ thầm như vậy.
“Cô cố chen vào đây nhé” vừa nói tôi vừa tháo các khuy cái áo mưa đang mặc.
“Cám ơn anh.” nàng nói trong lúc run rẩy.
    Bước nép vào cái vạt áo tôi vừa mở ra phía tay trái, cô bé rất nhỏ nhắn gầy gò ấy khiến tôi ngạc nhiên. Cái thân hình nhỏ bé ấy đang đứng ngay trước ngực tôi trong một không gian nhỏ hẹp trong một vùng tối đen đủi.
   Không có ai trên đường. Mưa vẫn cứ rơi. Mọi vật vẫn đang diển ra. Tôi vẫn cứ đứng yên một chổ bây giờ có thêm một người thứ hai mang thêm vào cái ẩm ướt, lạnh lẻo nhưng ẩn trong đó một vùng ấm áp mà chỉ có tôi cảm nhận được. Nước mưa từ xóm trên từ lâu nay chảy tự nhiên xuống ven theo bên đường tạo thành một cái mương nhỏ ngoằn nghòe. Nước xoáy mòn đất đỏ mềm chung quanh để lộ ra các viên đá lổm chổm. Hai đứa tôi như đang đứng giữa một con suối nhỏ, nước chảy xiết. Con suối cạn tôi đang đứng có cạnh sắt nhọn vô tình đâm vào đôi chân mềm ướt lạnh của nàng.
  Cô gái hơi tựa vào người tôi trong khi cố giữ thăng bằng khi tránh một viên sắp cắt gót chân của nàng. Tôi vừa nhận ra tôi cũng đang loạng choạng đang cố đứng vững khi cạnh bên tôi là một đóa hồng ngay dưới tôi là thanh gươm bén nhọn trong một vùng tối mịt mùng dưới những giọt mưa đều đặn như nhắc tôi rằng,
“Trời vẫn còn mưa. Đưa cô bé về.”
    Nàng run nhẹ mỗi khi dẫm trên các vũng nước đọng trên đường. Cái bờ vai gầy đó đôi khi chạm khẽ vào ngực tôi. Cái mùi tóc ẩm ướt vào mũi tôi như nhắc tôi rằng đây không phải là mộng mị. Hai cái cột gạch to đùng là cái ranh giới giửa nhà thờ và khu dân cư. Tôi vừa bước qua cái ranh giới của sự chân tình và gian dối. Cô gái không hề biết tôi đang nghĩ gì nhưng tôi thì có thể hình dung ra nỗi vui mừng của nàng. Cái vạt áo mưa của tôi dính nhẹ vào cái vạt áo dài đi lễ chiều của cô bé làm nàng như bị tôi dán vào. Cái ấm áp từ trong lồng ngực của tôi như tỏa ra làm ấm cái lưng nhỏ bé thon thả của cô bé. Không ai có thể tự đưa họ vào cái cảnh tình này. Không ai trong hai đứa tôi hiểu vì sao chúng tôi lại gặp nhau như thế,
“Nhà em ở đâu?”
Tôi hỏi nàng thật nhẹ nhàng.
“Dạ gần đến đài Đức Mẹ, anh rẻ trái. Đến gần giữa con dốc xuống đồi…” nàng cũng đáp rất nhỏ nhẹ. 
“Em chờ đợi ai mà phải trễ quá như vậy?”
“Em đi xưng tội. Ảnh hẹn đến đón em. Em chờ hoài không thấy.”
Tôi vừa hiểu ra nàng cần tôi như người bị bỏ quên. Anh chàng nào đó đã vô tâm quên rước nàng.
Cố dùng một câu thật văn chương, thật tao nhả, tôi hỏi nàng,
“Em có thường phải chờ lâu như thế này bao giờ chưa?”
Như đoán trước được câu hỏi ấy, cô gái trả lời ngay,
“Dạ, thỉnh thoảng thôi à.”
Tôi bước đi chậm hơn. Tôi mong sao con đường dài thêm ra. Tôi mong nàng kể cho tôi nghe nhiều hơn nữa và tôi ước sao trong những chiều tối mưa dầm như hôm nay, nàng cũng đứng chờ tôi đưa về như thế này.
    Hơi ấm của hai chúng tôi làm ấm dần lên cái không gian trong cái áo đi mưa chật chội. Hai đứa tôi như đang làm ấm lên cái lạnh lẻo của một số người, một phần nhỏ của Bảo Lộc.
    Nào ai biết nàng đã gặp tôi hôm ấy và nàng còn gặp những ai khác nữa hay không

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

CÁI KHÚC RUỘT KHÌA

   Tôi chỉ làm một khúc ruột khìa rất ngắn cho ba tôi nhâm nhi với hai chai bia buổi trưa đó nhưng nó có thể chứa đựng một khúc tình ca dài dằng dặt âm thầm và cho đến tận bây giờ.
      Một lần, từ Sài Gòn xuống do công việc khá trể, ông ghé lại nhà. Biết chúng tôi và tôi đã chưa ăn cơm, ông đưa hai anh em tôi đi ăn ở quán Vĩnh Ký nỗi tiếng ở miền tây. Làm sao tôi quên cái hạnh phúc, cái vinh dự, cái ý nghĩa của buổi ăn tối hôm đó. Trên xe lôi máy, trong hai chiếc áo sơ mi ngắn tay cũ kĩ, quần xà lỏn đón gió mát mẻ, chúng tôi sướng hơn bao giờ hết. Chúng tôi vênh váo nhìn quanh xem có ai nhìn thấy chúng tôi không. Với mọi thằng trang lứa khác, lúc ấy có ai hạnh phúc như anh em chúng tôi.
   Mì xào dòn là cái món đầu tiên ba tôi gọi. Nó cũng làm món đầu tiên tôi biết ăn. Mỗi sợi mì giòn khứu ấy như là mỗi lần ông âu yếm tôi. Ông chỉ gắp vài miếng gan để nhâm nhi với ly bia. Phần còn lại hai anh em tôi chia nhau đến khi cái đĩa sạch bóng. Biết tụi tôi chưa hề biết đến món rùa, ông gọi “rùa rang muối”. Phần thịt thơm lừng bốc khói là của ông. Ông gắp các trứng rùa vào chén cho hai đứa con trai lớn của ông ấy và chắc ông không bao giờ nhớ. Em trai tôi có khi nhớ lờ mờ thậm chí đã quên cái món ăn đó, còn tôi thì không bao giờ.   
    Ba nuôi của tôi đã kể lại rằng hằng năm hai ông bà đưa các con đi chơi cho đến mức chúng nó năn nỉ được đưa về. Trong hành trình dài ngày đó, ông bà cho các con ăn nhiều đến nỗi chúng ngán ngẫm ê chề phải lén trúc bỏ đi. Hằng ngày dượng bảy của tôi mua thức ăn về và tối đến chở 5 đứa con đi ăn hàng ngoài chợ. Chú Hải cạnh bên nhà rất thường chở hai thằng con trai lớn đi ăn sáng hoặc ăn chiều. Nhiều người cha khác luôn mang về nhà những món ngon vật lạ. Cha tôi thì không. Sau khi chia tay nhau, ba mẹ tôi không hề nói với nhau nửa lời.
   Có lẻ vì cuộc mưu sinh của ba tôi quá khắc nghiệt khó khăn. Có lẻ 4 đứa con riêng của ông với người vợ hai đã chiếm mất hết sự yêu thương chăm sóc của ông rồi chăng? Có lẻ cuộc chiến tranh lạnh lâu dài giửa hai ông bà đã khiến ông tin rằng chúng tôi âm thầm theo phe mẹ, phe nghịch! Ông chắc tự nghĩ rằng là con lớn, tôi sẽ phải cố quên ông đi như cái cách mẹ tôi từ nào đến giờ đang làm.
    Thương mẹ, không thể để cảnh nhà trống trải, bề bộn, tôi quán xuyến việc nội trợ như một trưởng nữ giỏi dang có trách nhiệm. Hàng sáng mẹ tôi phát 2 đồng để đi chợ nấu ăn cho cả nhà. Dù chị tôi ít ăn cơm chiều nhưng không khi nào tôi không chừa thức ăn cho chị tôi cả. Để tôi không phải nấu dư cơm, không phải chừa thức ăn cho bà. Mẹ tôi thường nhắc tôi,
“Bửa nay má làm ca đêm.”
    Do cái affair của ông không thể đều đặn. Ba tôi phải ngụ lại Cần Thơ qua đêm hay chỉ có một đổi. Hôm ấy, ba tôi ghé lại lúc sáng sớm, sau khi mẹ tôi đã đi làm. Tôi hỏi ngay,
“Chừng nào ba về vậy ba?”
Ông ta buộc miệng cầu nhầu mà không thèm nhìn xuống tôi,
“Chờ “tụi nó” gom tiền chắc tới chiều tối mới xong.”
Ông rút được một số thuốc xịch muỗi và các loại hóa chất diệtc con trùng khác của đơn vị. Khỏang một tháng ông ta chuyển cho các tiệm thuốc trừ sâu ở Cần Thơ bằng xe đò Hiệp Hưng quen thuộc và rồi chính ông phải xuống để nhận tiền. Tôi hiểu ông không hài lòng “tụi nó” vì phải chờ. Tôi cũng hiểu ra rằng trưa nay tôi phải cố làm một điều gì đó cho ông vui, rằng ông ta phải ở lại đây qua buổi trưa. Tôi hình dung ngay đến việc mua cho ông hai chai bia Larue khổ lớn- cái gu của ông và nhất là tôi phải làm cái gì cho ông ấy nhâm nhi. Trong túi tôi chỉ có số tiền đi chợ ấy, 2 đồng. Trong nhà không có sẳn một món gì cho bất cứ ai ăn thêm, đậu phọng, một vài con khô, một nhúm tôm khô, một ít củ kiệu…Tôi nhủ thầm,
“Trong khi ra chợ, ta chọn cái thứ gì ngon miệng, rẻ tiền cho ba nhắm trưa nay mới được.”
Đi chợ hơn nửa năm nay tôi biết giá gần hết giá của các loại thức ăn thông thường. Các bà bán hàng cũng nhẳn mặt cái thằng nhóc con, mặc quần xà lỏn đen, cái áo sơ mi ngắn củn cởn, tay cầm cái túi “bàn”. Cả hai phía đều thông cảm nhau. Tôi không kêu ca mắc hay rẻ. Tôi tự nhủ,
“Chả nhẻ mấy bác ấy bán mắc cho mình?”
Tôi chưa bị mẹ tôi rầy la vì mua món này thiếu, món nọ bị cân non,
“Chẳng lẻ nào mấy bác ấy cân thiếu khi bán cho thằng nhóc như ta một lạng thịt hay 3 lạng đậu hủ hay sao?”
   Hôm ấy tôi ra chợ với một tinh thần khác biệt, mua một món đồ nhắm cho ba tôi. Mặt mài tươi tỉnh, tôi hỏi bà Chín Mập,
“Bác ơi, một người ăn chừng bao nhiêu gram ruột khìa vậy bác?”
Bà Chín bật cười,
“Bà lủm một kí mới vừa bụng lận con trai.”
Tôi thộn mặt ra,
“Dạ không đâu. Ý con là để nhâm nhi một mình há.”
Vừa kéo cái dao chặt thịt dầy mo vào thanh thép mài nghe rợn óc, bà hỏi lại,
“Cho ai nhấm vậy con?”
“Dạ cho ba con.”
Buông cây dao xuống cái thớt thịt,
“Mèn đét ơi. Thôi con cầm cái khúc ruột ngắn dư này nè về đi. Biết phải làm sao không?”
Bà Chín trỏ tay về phía quầy bán đồ gia vị và căn dặn tôi mua mỗi thứ một ít thôi và hỏi người bán cách “ướp” cho vừa thơm và vừa miệng.
Mừng rở vì không phải tốn tiền, tôi lia lịa,
“Dạ cảm ơn bà Chín. Con về hỏi Dì Út kế bên nhà. Con làm được mà.”
    Tôi hăm hở mừng rở và trên đường về. Tôi nghĩ đến việc ba tôi vừa uống một ngụm bia, vừa nhai ngon lành khúc ruột khìa thơm lừng vừa miệng đựơc tôi đặt trên cái đĩa kiểu vừa, với những lát dưa leo mỏng sắp chung quanh và vài khoanh cà chua đỏ thắm.
     Hai anh em tôi sẽ vui lắm đây. Hôm nay ba tôi ăn cơm ở nhà và hôm nay ba tôi không hề “kèm nhèm” gì về mẹ tôi cả.
   
                                                          Rạch Giá, ngày 27- 8- 2012
                                                                                                 Lương Ngọc Thành


Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2012

CÁI ĐĨA NHẠC

                                             
 Tôi được nhận một đĩa nhạc vừa được thu thanh của một nhạc sĩ để chia buồn cái tang mẹ của tôi.
    Anh ta còn mẹ nhưng tôi đã mất mẹ vào tháng 6 năm 2001. Sau khi an táng bà, ngày đầu tiên đã thật dài, thật kỳ lạ, thật trống vắng đối với tôi.  Thức dậy thật sớm và sau một lúc lâu thẩn thờ bất động, thật tự nhiên, tôi đã mail cho người nhạc sĩ, thân thiết với tôi sau bài hát tôi đã dịch.
“Ngọc Lễ thân !
Trên thế gian này không ai có thể thay thế mẹ ta được. Buồn thay mẹ tôi vừa vĩnh viển ra đi.
Chúng ta cùng hiểu rằng không có điều gì mà ta không thể không làm được để mẹ ta hạnh phúc.
Tôi nhớ mẹ tôi vô cùng.”
Chiều hôm đó tôi nhận được mail của người tôi đang mong đợi chia xẻ nỗi buồn của tôi.
Trong bức mail ngắn gọn đó, Ngọc Lễ đã viết,
Anh Thành thân!
Chúng ta đều yêu thương mẹ người đáng để ta viết ra những lời ca ngợi.
Chúng tôi vừa thu thanh xong bài “Nhớ mẹ”.
Tặng anh như là một món quà mọn. Mong ca khúc này giúp được anh vơi đi nỗi buồn.
 Ngọc Lễ- Phương Thảo
   Tôi đã nóng lòng chờ đợi và hồi hộp khi nhận cái phong bì một tuần sau đó và 2 giọt nước mắt của tôi đã chảy xuống thành hàng đến xuống cằm khi tôi nhìn thấy cái CD với những chữ trên đó,
“Nhớ về mẹ” mến tặng anh Thành.”
Như họ đoán, tôi đã khóc rất nhiều khi nghe đĩa nhạc đó. Làm sao tôi không nhớ đến mẹ tôi, người đã cưu mang tôi 9 tháng trong bụng và đã quyết định để tôi sống khi bà muốn cùng tôi tự vẫn lúc tôi chưa tròn một tuổi. Làm sao tôi không nhớ đến mẹ người đã bỏ hằng bao nhiêu ngày đêm mong tôi thành đạt, mong có cháu ẳm bồng, mong tôi ngày một khấm khá. Thật tiếc thay tôi không thể tự tay chăm sóc cho người nhiều hơn vì bà chỉ nằm trên giường bệnh đúng 3 đêm hai 2 ngày sau một cơn ngưng tim, cái hậu quả của 20 năm bị tiểu đường.
  Thật giá trị thay 48 giờ với tôi được ngồi bên giường bệnh của người trong phòng cấp cứu, yên lặng, hiền lành, ngoan ngoãn. Thật đáng để mọi người con xem cái cảnh tôi chăm sóc mẹ tôi. Thật xứng đáng với tôi vì tôi đã tự nhận ở lại VN 19 năm trước và trong lúc lâm chung chỉ có tôi ngồi kế bên kêu gào tiếc nuối,
“Mẹ ơi! mẹ không chờ để nhìn thấy mặt em và chị con sao mẹ ơi?”
Làm sao tôi có thể nguôi được những mất mát mà không có thứ gì điều gì có thể khỏa lấp được. Lúc một giờ sáng tôi đi đi lại lại trong phòng khách, nhìn dư ảnh lần này và lần khác. Không có một phép mầu nào, lời kinh nào, không có một thứ hương khói nào, một lời phán truyền của bất cứ ai có thể giúp mẹ tôi nguôi nỗi thương nhớ chúng tôi. Không có một đấng nào có thể giúp mẹ tôi quay về. Tôi thẩn thờ, chậm rải đốt thêm một nén nhang cho mẹ tôi rồi khóc vì tôi “nhớ mẹ”.
    Những gì tôi nghe khiến tôi khóc nhiều hơn,
“Mẹ  hôm cũng ngồi nào nhớ thương con….
Ha há ha hà, con cũng rất nhớ mẹ, nhớ mẹ.”  
Tôi đã lại bỏ nhà lên cao nguyên lập nghiệp sau ngày 30 tháng 4 khỏang 2 tuần. Tôi lại rời mẹ tôi để đi học lại từ tháng 9 năm 1975 cho đến khi tôi lặn lội đến cái chòi lá trong một đêm mưa tháng 7 năm 1979. Nhưng đến năm sau đó tôi bỏ mọi thứ đã có ở Sài Gòn. Tôi mới đưa mẹ về chung sống trong một căn nhà lá tồi tàn mà tôi đã xin ở đậu. Chị và em tôi đã mất trong một tai nạn xe, để lại tôi trong lòng mẹ tôi hai lổ hổng lớn. Họ cho tôi một cơ hội, họ vô tình giao cho tôi trách nhiệm “được chăm sóc mẹ”. Tôi đã làm mọi thứ, giúp những người hàng xóm hết lòng, tự tập tành hết cách, tránh hết những nhiều tai tiếng để đem về cho mẹ tôi niềm vui, niềm tự hào, tiếng khen tặng, sự kính nễ và hơn hết là hạnh phúc cái mà bà lâu nay đã không có. Tôi mua bao xi măng để xếp thành bao đựng đường đậu. Tôi tự đi nhận bảng về để vẽ. Tôi tự tập làm thợ chụp ảnh dạo trong lúc tự học AnhVăn. Tôi được thầy tôi đến tận nhà mời tôi đi dạy.
    Tôi nhớ mẹ. Tôi nhớ đến những gì tôi đã làm được những gì chưa. Tôi hồi tưởng biết bao nhiêu buổi sáng sớm đã mài dũa đèn sách bút nghiên trên Bảo Lộc để có ngày mà tôi làm tròn được chữ hiếu. Tôi tưởng tượng được những buổi sáng cùng lúc đó mẹ tôi ở Cần Thơ đun nước pha cho các vị khách ghiền cái ly cà phê đen nóng hoặc những buổi như vậy, ở Rạch Giá, mẹ tôi phải chèo xuồng vào kinh đi thăm đồng. Tôi nhớ lâu trước đó những ngày tháng mẹ tôi vác một bao quần áo to về nhà để giặt ủi. Tôi nhớ đã lâu hơn thế là những lúc mẹ tôi theo ba tôi đi buôn bán nhiều nơi trong thiếu thốn vất vả trong sự chịu đựng ông chồng nhiều bê tha, ít trách nhiệm. Tôi nhớ cái bướu cổ mà mẹ tôi mang nặng nhiều năm cho đến ngày nó biến mất sau đám ma ông nội tôi. Tôi nhớ những buổi cơm do mẹ tôi nấu những con cá chiên thật giòn cho riêng tôi, những khứa cá lóc to thắm màu với những hạt tiêu đen bốc mùi thơm. Tôi có thể kể ra lần tôi đã khiến mẹ tôi trồ lên mừng rỡ ngạc nhiên, khi tôi cho bà xem bao nhiêu tiền tôi kiếm được sau khi tôi đi chụp hình 3 ngày, giao xong một cái bảng quảng cáo to tướng hay số tiền nhỏ tôi kiếm được sau khi bán được những bao giấy đựng đường đậu do chính tay tôi cắt dán từ những bao giấy đựng xi măng. Tôi nhớ rỏ mẹ tôi đã hảnh diện như thế nào lúc mà tôi trả xong số tiền trả góp để lấy chiếc xe Honda mới. Tôi nhớ những lần mẹ tôi cười vui khi có những bà bạn ra sau vườn xem 5 hàng xoài tôi đã trồng, chăm sóc như một nhà vườn thứ thiệt, những trái xoài cát Hòa Lộc thơm ngon bà đã cắt ra mời khách ăn ngay trong miếng vườn to rộng sạch đẹp. 
Tôi nhớ ánh mắt, vẻ mặt hớn hở của mẹ tôi hai lần đón cháu nội chào đời. Tôi hình dung ra được cảnh mẹ tôi bồng cháu trên tay đi sang nhà cạnh bên hay dắt cháu đi lẩm đẩm bên cạnh bà. Tôi nhớ những lần hiếm hoi mẹ tôi giận hai vợ chồng tôi, nào là không chịu sanh con, nào là không chịu làm điều này, không mua sắm thứ bà đã chọn. Tôi nhớ những mẩu chuyện bà kể về thời kỳ theo ba tôi đi nhiều nơi. Tôi nhớ những kỷ niệm bà đã kể khi chúng tôi ở Pleiku, Quy Nhơn. Tôi nhớ những cái tên bà thường nhắc. Tôi thuộc lòng các câu mẹ tôi đã kể về ông nội hay bà ngoại. Tôi nhớ những gì mẹ kể về những lần chị hai tôi từ Sài Gòn xuống tận nơi mẹ tôi ở để làm tình làm tội và những lần bà muốn tự vẫn vì thằng em hút sách của tôi.
  Tôi nhớ mẹ nhiều đến nỗi tôi bật khóc bất cứ lúc nào tôi kể về người. Ngọc Lễ có lẻ nên tìm hiểu điều đó và viết thêm một ca khúc mới, “Mẹ tôi”