Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

CUỘC TIỂN ĐƯA

                              

   Buồn nhưng không trách ai, tôi tự lên Bảo Lộc và tự một mình nhiều lần trong bóng tối âm thầm lạnh lẻo ra bến xe Bảo Lộc để về S.G. Nhưng ngày từ Úc về Việt Nam,14-4-1993, tôi được có một cuộc tiển đưa mà nhiều người có thể ngạc nhiên, ganh tị.
   Trước khi từ Úc qua Mỹ chơi, Kim Cương, bạn rất thân của Như Ngọc, ở Bank Town, Sydney, đã đọc được mục quảng cáo của tôi trên báo. Cương gọi tôi ngay và hứa khi trở về sẽ đến thăm tôi. Không lâu sau đó, trong một buổi sáng cuối tuần, khi đang theo gia đình em tôi đi phố, tôi bị một người chạy đến ôm chầm lấy tôi. Gã thanh niên ấy kêu lên,
“Anh Thành phải không? Ối giời ơi, anh qua đây khi nào?”
  Minh Đăng, lớp 77 KNN, ĐH Sư Phạm Kỹ Thuật, quá đổi mừng rở vì từ hôm ấy hắn có tôi để tâm tình, có tôi để giúp hắn có một thay đổi. Năm 1980, sau khi tốt nghiệp, làm 2 công việc vất vả không ra gì, vâng lời bố mẹ, Minh Đăng theo anh chị vượt biên. Họ rất nghiêm khắc và quyết định học tiếp Đ.H. Đăng tâm sự với tôi,
“Em đang theo học TAFE, Technology and Art Further Education. Ở đây, em không có ai thân thích ngoài ông anh và bà chị dâu. Họ không cho em hút thuốc uống bia đâu đó nhé. Em chỉ còn cách đi Disco Club mỗi tuần một lần để xả stress. Tuần này em mời anh đi với em nhé.”
    Hai tuần sau, hôm Kim Cương đến thăm tôi cũng đã là lúc tôi cố tình nhắn Đăng đến chơi để họ gặp nhau. Tôi vắn tắc giới thiệu họ với nhau,
“Đây là Minh Đăng, khóa đàn em, người Sài Gòn. Kim Cương là bạn thân của Như Ngọc, người cùng quê với anh đấy.”
Vâng lời người chị cả, Kim Cương ưng một người giáo viên Úc để được qua đây trong lúc đang là một giáo viên môn nữ công tại một trường cấp III tại Gò Vấp năm 1986. Sau hai năm chung sống, Kim Cương ly dị chồng vì một bất đồng chính kiến. Kim Cương và Đăng cùng tuổi, cùng cô đơn. Họ đã mời tôi ăn tối, nghe ca nhạc và xem trận chung kết giải bóng đá thế giới trẻ như là cách cảm ơn tôi, ông mai mối.
    Trước khi tôi qua, Bà Lộc đã quá hạn về nước. Quá thương mẹ, anh Hai  Lễ  đã không muốn bà về. Ngày tôi về cũng là ngày anh ta nhờ tôi đi cùng, đở đần bà đến nơi đến chốn. Hồi ở Việt Nam, anh Lễ nhờ tôi huấn luyện cho đội bóng xã Sóc Xoài, nơi mẹ tôi cư ngụ. Anh ta luôn xem tôi như một người đáng tin cậy. Tôi được mời đến nhà dùng bửa, được anh ta mua tặng một đôi giầy bóng đá và dĩ nhiên gia đình anh sẽ tiển tôi về.
     Chỉ làm trong hảng may chỉ 3 tuần, tôi cũng đã được nhiều thiện cảm của hầu hết đồng nghiệp. Bác Ba, vừa bố của người chủ hảng vừa là tài xế xe van đi giao nhận hàng may, thích tôi vì cái cách tôi làm việc, cái tính đôn hậu, giúp đở trò chuyện với mọi người của tôi. Ông buộc miệng rất tự nhiên,
“Hôm nào Thành về, bác sẽ nghỉ làm một buổi để tiển cháu.”
   Văn Tùng đã gặp tôi khi đi phố Cabramatta một hai lần. Hắn không tin vào mắt mình. Hắn tự nghĩ,
“Thành Xì chắc phải theo gia đình nuôi qua Mỹ thôi chớ. Tay này to mập hơn nhiều. Chắc là người giống người rồi.”
Vừa đọc được mẩu quảng cáo tìm bạn của tôi, hắn chạy ngay đến nhà em tôi, 10 phút chạy xe. Hai vợ chồng Tùng tiếp tôi rất thân thiết ân cần,
“Có khi nào ở bên đó, hai thằng bạn gặp nhau gần nửa đêm như vầy không mậy? Tao đi làm về gần 9 giờ tối hằng ngày đấy. Bửa nay ngồi chơi với tao tới sáng nghen?”
Sau đó mấy hôm, Hà vợ của Tùng gọi điện thăm tôi. Khi nóivề đời sống bên đấy, Hà muốn khóc,
“Ảnh không muốn em, có tiếng Anh trước. Em bị giam lỏng gần 5 năm từ khi qua đâu. Con bé Ni Ni nay 4 tuổi, em mới có dịp tiếp xúc với thế giới bên ngoài đó.”
 Ni Ni mến tôi nên nằn nặc muốn tôi đến chơi. Ngày 6 tháng 1 năm đó, Tùng đưa tôi đi họp mặt “Gia Đình Nông Lâm Mục Úc Châu” lần thứ nhất. Tại nhà cô Dương Thị Tuấn Ngọc, trước khi tan tiệc, chính Tùng đề nghị làm tiệc tiển tôi về nước trước kỳ họp lần thứ hai, được sắp xếp vào tháng 6. Anh chị tôi, cặp Kim Cương- Minh Đăng cũng được Tùng mời dự. Nhiều người “từng mặc áo nâu của nhiều trường bên Việt Nam” rất tiếc rằng tôi phải trở về khi mà nước Úc làm lơ cho bất cứ ai muốn ở lại. Trong bửa tiệc chia tay ấy, tôi vinh hạnh được thầy Tài, nguyên hiệu trưởng trường Bình Dương tặng tôi cái biểu tượng Harbour Bridge and Opera House. Hà, vợ của Tùng, trao tay tôi tấm thiếp goodbye có nhiều câu chúc tụng thật chân tình, thật cảm động.
  Tâm, cháu gọi tôi bằng cậu, đang một mình làm chủ một doanh nghiệp may mặc, TIMMY, có tiếng ở khu Cabramatta, Sydney. Năm 1980, trốn một vụ ngộ sát, một chàng trai trẻ đen đúa ngày nào, không nghề nghiệp, ít chữ nghĩa, chạy xuống Rạch Giá làm ruộng để trốn tội. Nay muốn đưa vợ và hai con trai ra phi trường để tiển đưa tôi như là cách tạ ơn tôi đã giúp nó làm một một bộ hồ sơ giả mạo. Bận rộn quanh năm, 12 giờ một ngày để kịp các hợp đồng, cháu tôi cho rằng hôm ấy nó có cơ hội cho vợ con nó biết phi trường Sydney và nó có một ngày nghỉ.
   Tối ngày 13-4 sau ngày làm việc như bình thường, cô em dâu của tôi làm một bửa tiệc nhỏ. Vợ chồng Tùng, cặp nam nữ tôi vừa làm may và Phùng Trương đã đến dự. Ôm cây đàn guitar, tôi đã mang qua đây, Phùng Trương,  cất tiếng câu cuối hát bài “Người Yêu Tôi Bệnh” của Nguyễn Ngọc Quang,
“Ngày nào có nhau, giúp nhau cho thật nhiều. Ngày nào mất nhau, giúp nhau chẳng được đâu…”
   Nó nghẹn ngào nói với tôi,
Tao không chia tay mày ở phi trường được.”
   Từ sáng rất sớm hai chị tôi thúc giục tôi chuẩn bị lên đường. Tại departute longue, lần lượt cặp Kim Cương- Minh Đăng, Bác Ba và bác gái, hai vợ chồng Tùng và hai con, hai vợ chồng em tôi và hai cháu trai, hai vợ chồng cháu tôi và hai cháu, anh Hai lễ và vợ đến để chia tay tôi.
   Hạnh phúc có khi đến thật bất ngờ, thật choáng ngợp.

                                                 Rạch Giá, Mar 25, 2013
                                                                          Thành Xì- TL 71



CUỘC HỌP MẶT BẤT NGỜ


    Tốt nghiệp từ một trường đại học nhưng trước đó đã từ 3 trường trung học NLS khác nhau: Định Tường, Sóc Trăng, Bảo Lộc, năm đứa tôi bất ngờ họp mặt, một nhóm khá nhỏ, nhưng tôi bất ngờ học được một bài học khá lớn.
   Sập tối hôm đó ngày 19 tháng 11, 2008, khi đang viết lách gì đó, tôi nhận điện thoại của 7 Mím. Giọng cười vui vẻ khác thường, nó nói khá nhanh,
“Ê, Lương Cộ, ra cái quán này gặp nhau nhen. Tao mới lên nè.”
    Tôi mừng vì vừa được gặp bạn cũ vừa có một niềm vui mới nếu nó giúp được tôi. Tôi vội vả chạy đến nơi nó chỉ dẩn, xéo trường Đ.H Bách Khoa. Bảy Mím, cái biệt danh khá tượng hình, có thể nói lên cái đặc điểm của nó, rất thường mỉm cười. Còn tôi, Lương Cộ, cái tên do Lý Xuân Tha, MS 71 phong tặng, có khã năng “cộ” được những thứ nặng nề cồng kềnh khó chở. Khi đi thực tập, ai nấy đều có phần để lo trong thời gian ở ngoài cái phòng trọ tiện nghi, cái nhà ăn cung cấp hai bửa cơm. Mặc cho ai mang vác gì đó, tôi “cộ” bộ “đồ nghề” cho một đội bóng đá, đội khoa Nông Nghiệp.
   Bảy Mím, ngoài là một hậu vệ phải uy tín của cả trường, nó còn gần gủi với tôi hơn những thằng khác về nhiều phương diện. Vốn lâu nay âm thầm tự lực kiếm sống ở Rạch Giá, tôi cũng âm thầm tránh né họp lớp trong khi nhiều tin đồn cho rằng tôi đã xuống tàu với ai đó rồi. Tìm được số điện thoại của Tùng Xèn- Trung Tâm Khuyến Nông Long An, tôi lần tìm ra số phone của 7 Mím.
   Dù bận tâm trên đường ồn ào chật chội, tôi gợi nhớ lại ngay ra lần tôi chính thức đi họp mặt lần đầu tiên tại nhà nó. Đó là lần thật tội nghiệp cho tôi, cái thằng ở cách nó đến những 6, 7 giờ xe chạy. Xe 10 giờ Rạch Giá chạy đến nơi Bảy Mím cư ngụ, Đại Học Tại Chức Tiền Giang lúc ánh bình minh chưa lố dạng. Ngày họp mặt ấy đại đa số, đến khoa Nông Nghiệp của ĐH. SPKT, nên tôi với 2 vợ chồng Bảy Mím ngồi ứ hự trước một lượng đồ ăn cho hơn 30 chục người. May thay, hai vợ Tùng đổi hướng ngược lại để chúng tôi có thêm 2 thực khách nữa. Tôi bất ngờ gặp lại 4 người chung nhau gần 5 năm học vất vả. Hai cặp vợ chồng, Yến- Lộc- cô Dương Thị Tuấn Ngọc rất thương mến, và Hạnh-Tùng nay đều hạnh phúc và đều có 2 con. Tôi bất ngờ nghe Bảy Mím kể lại cái giai đoạn nó phải xa nhà để “kiếm thêm” ở tận Lâm Đồng gần 2 năm trời. Tôi thấm thía cái khoảng cách giửa trường đời và cái trường học, giửa cái thực tế và lý thuyết. Dĩ nhiên tôi kể hết cho nó nghe tôi đã và đang làm gì, nhất là khi hai thằng tôi ngồi bên lề đường đón xe về Rạch Giá.
    Gặp tôi lúc nào nó cũng vui như lân thấy pháo. Thấy tôi dừng xe bên ngoài , nó đứng lên kêu to tên tôi,
“Ê, Cộ! đây nè!”   
Vừa ngồi vào bàn, cụng ly tôi, nó hơi tếu,
“Ngày mai tao ra Hà Nội để gặp bộ trưởng Giáo Dục đó nghen mậy.”
Tôi cũng nhanh miệng hỏi đùa,
“Đả quá ta. Cho tao nhắn lời hỏi thăm ổng nghen.”
   Tôi không ngại khi vào đề trực khởi với nó,
“Tao lên đây hơn nửa năm rồi. Kiếm thêm cơm và kiếm thêm cái chữ nữa mày ơi. Nhờ mầy một chuyện nghen?”
“OK, Uống mới tin mầy. Nè vô đi.”
Nuốt một hơi dài, chùi bọt bia vội vả, tôi nói tiếp,
“Để học cái lớp Thạc sĩ giảng dạy tại SEAMEO, tao cần một giấy chứng nhận dạy liên tục hai năm ở đâu đó. Mầy coi giúp tao được không?
Bảy Mím thật thà, giản dị,
“Tao làm phó giám đốc thiệt. Giới thiệu mày dạy ở đó thì quá được chứ chứng cho mầy như vậy không được đâu.”
Tôi đáp lời rất thật thà nhanh gọn,
“Thôi, tao sẽ có cách. Vô đi mậy.”
Tuyết Mun mới từ Mỹ Tho lên đến nhà xong lại vối vả vọt xe đạp điện ra đây. Mặt mày đờ đẩn, Tuyết Mun hỏi tôi trước,
“Cộ tới hồi nào vậy?”
Tôi vừa cười vừa tếu cho vui,
“Làm gì bây giờ mới tới?”
   Trong khi tôi một mình lên đây “bới quào”cho cả nhà 4 người. Thằng con trai học trên này ở với tôi, con gái ở dưới ở dưới với mẹ nó. Thỉnh thoảng tôi cùng với Hoàng Guitar- đến cái kiếm cơm của 2 vợ chồng Tuyết Mun để “chai này cụng chai kia”. Tôi thích cái đoàn kết, chung sức đồng cam công khổ của hai vợ chồng Tuyết- Hường từ Mỹ Tho lên đây hơn 10 năm. Tụi tôi chơi “công xi”, bên mồi- bên bia Sài Gòn đỏ. Ai muốn uống thêm, cứ kêu thêm và cứ móc tiền ra mà trả.  
   Người chủ quán này, từ một NLS nhỏ, giờ thành một ông khá lớn. Có vợ gốc Sài Gòn đang là thủ quỹ của trường T.H lớn, hai con gái đỗ đạt, nay có thêm cái quán nhậu này, trên vài phương diện, hắn hơn tôi những 10 lần. Một chiến hữu đến nữa cho chúng tôi đủ bộ ngũ. Tay này có chức vụ trong bộ đội, vợ dạy lương cao và cũng có hai con đỗ đạt nữa. Ông bạn này có lẻ cũng hơn tôi khoảng 10 lần nữa. Từ ngày lên đây, đầu tháng ba, hôm nay tôi mới gặp hai ông bạn “thành đạt” này của tôi. Bốn đứa tôi đã chung sống suốt 4 năm trong một phòng ký túc xá với biết bao nhiêu là thiếu thốn gian khổ và kỷ niệm.
    Ông chủ quán vô đề,
“Lương Cộ lên đây hồi nào vậy?”
Tôi tươi cười,
“Bảy tám tháng gì rồi.”
Ông kia hỏi theo ngay,
“Mày lên trên đây làm gì Cộ?”
Tôi cũng tươi cười như một người đang có niềm vui,
“Dạy Anh Văn.”
Tuyết Mun pha trò,
“Bây giờ mất dạy rồi. Thôi mấy ông vô đi.”
Bàn tròn xoay quanh chuyện đời, chuyện con cái, chuyện hồi thời sinh viên và những chuyện khác nữa. Ai mà không vui khi có 4 người cùng nhau kể lể, chọc ghẹo, đùa bởn. Chỉ có gặp bạn học mới khiến ta hồn nhiên cười vui, tươi trẻ. Chỉ có gặp người đồng môn mới thấy mình ngộ ra nhiều điều có khi còn giá trị hơn những bài học lớn trong trường. Người chủ quán hỏi tôi,
“Mầy đang dạy ở đâu vậy?”
Tôi thật thà đơn giản,
“Thì nộp đơn, phỏng vấn và dạy thử chổ nào nhận thì tao đến.”
Hắn tuyên bố,
“Bây giờ trên đây phải trẻ, bằng cấp cao mới dạy được.”
Tôi vừa hơi tủi thân thì bị người bạn thành đạt kia tặng cho một câu,
“Mầy giờ này mà còn lang bạt như thời thanh niên đi học nữa hả.”
Ông chủ quán người vừa khuyên tôi, kẻ không còn trẻ và không có bằng cấp cao, tiếp thêm một cú đau điếng,
“Lương Cộ thực tế mà không thực dụng.”
Trên đường về, tôi điểm lại những gì đã làm trong 6 tháng qua. Con tôi vừa lên học, sống chung phòng với tôi. Dạy ở vài trường, kèm tại vài nhà, dịch cho một công ty, mua cho con một laptop mới và một xe gắn máy cũ là những điều tôi làm được. Hằng tháng tôi còn phải gửi về nhà một khoản cho vợ và con. Tôi chưa hề phải xin nhờ sự giúp đở của một ai ngay cả giòng họ nội ngoại trên này.
   Nếu tôi đã biết nói dối nói phét, chắc tôi không phải hơi buồn mà 2 ông bạn tôi không phải ra điều khuyên răn ấy. Thì có mất chi của ai đâu mà ngại.
“Tao lên đây làm hiệu phó của trường X, sắp mua lại xe hơi của ca sĩ Y và sang năm sẽ cất nhà tại quận W.”
    Cuộc họp mặt đó chắc phải vui hơn không?
                                                                                  Rạch Giá Sep 6, 2012
                                                                                                                       Thành Xì TL 71


TÔI DẠY ANH VĂN


   Từ Nông Lâm Súc Bảo Lộc, ban Thủy Lâm, tốt nghiệp ĐH ngành giảng dạy Nông Nghiệp, ít có ai lại trở thành thầy giáo tiếng Anh như tôi và cũng ít có giáo viên tiếng Anh nào có những suy nghĩ, cách làm như tôi.
      May mắn thay, tôi được mời đi dạy sau khi tôi mới có bằng A bởi vì tôi được xem như là một ứng cử viên sáng giá nhất lúc ấy ở trung tâm tôi đang theo học. Không có ai có thể tượng được tôi đã trước chỉ tập nghe được khoản một tháng với cái máy casstte cũ kỹ của vợ Khuê Bầu trong lúc qua làm việc cho nó bên Cần Thơ. Vì trước đó chưa hề được đào tạo, tôi đã chọn cho riêng tôi một cách khi tôi dạy lớp đầu tiên cho người học vở lòng- khó cho phía họ và phía tôi. Khi tôi được mời dạy một nhóm bác sĩ sản khoa, tôi đã phải lại có một cách khác. Kế tiếp tôi được mời dạy một lớp thiếu nhi, loại lớp khó nhất, cần nhiều năng khiếu, nhiều tố chất nhất. Tôi đã diển xuất cả như một nghệ sĩ, kịch sĩ hoặc như một ca sĩ.
    Trong khi các giáo viên cố che giấu họ trước đó đã học và hiểu như thế nào, tôi kể cho học trò tôi nghe hết mọi thứ về tôi. Họ áp dụng cái gì họ đã học trước đây trong khi tôi thực thi cái gì tôi có thể nhận ra trong khi dạy. Họ cứng nhắc, rập khuôn từng chi tiết nhỏ theo sách giáo khoa. Tôi linh động, sáng tạo và thay đổi phương pháp liên tục để củng cố nghề dạy của tôi. Tôi tự dặn lòng rất nhiều điều. Tôi tự xét, tôi tự vạch ra mục tiêu để tăng tiến và tôi cũng đau khỗ nhận ra rằng họ học Anh Văn như cái cách của người nông dân ra đồng, cái cách mà một số ông bạn lười biếng của tôi đã làm trên B.L. Họ nghỉ học hoặc đến sớm về trể, đóng học phí một cách tuỳ tiện. Họ không hiểu nổi rằng việc học Anh Văn giống như việc cải tạo đất cho nhiều năm sau sử dụng. Họ không công phu như một nông dân chân chính trong khi tôi vất vả tận tuỵ như một cán bộ nông nghiệp xã, ấp. Họ đã không đọc từ vựng cái cách tôi đã tụng các tên khoa học của cây rừng hồi ở NLS. Đa số họ khác hẳn với tôi.
   Qua một số bộc lộ của học trò, tôi nhận biết rằng dù họ không giỏi tiếng Anh nhưng họ khá giỏi trong việc nhận ra ông thầy nào ăn nói hay hơn hoặc dạy hay hơn. Đặc biệt họ cho rằng đồng tiền họ trả phải được đánh đổi bằng sự phục vụ của ông thấy giáo như một người khách đi massage hoặc một người thực khách trong một quán ăn vậy. Họ quên rằng một số lớn thầy giáo có sĩ diện có cái tâm có cái kinh nghiệm học và cái trách nhiệm dạy của họ. Tôi bỏ nhiều giờ để điểm lại những học trò đã bỏ tôi bất thình lình và tôi có thể rút ra những bài học cho riêng tôi. Nhưng dẩu sao các cá biệt đó không thể đem đi so sánh được, áp dụng được.
      Tôi trình bày với học trò những kinh nghiệm tôi tự học, những khám phá của tôi về việc hiểu biết văn phạm thật nhanh và tôi đối với họ vừa như một phụ huynh nghiêm khắc, vui tính, tận tuỵ, và công bằng vừa như một đàn anh đích thực. Tôi so sánh cái khó của ngôn ngữ. Tôi chứng minh cái sai của các bài báo tiếng Việt. Tôi -theo cách ấy- có thể thành nhà ngôn ngữ học mất thôi. Tôi kể cho họ nghe những tấm gương xấu và tốt, những cách dạy và học Anh Văn ở trung học. Tôi cho họ biết tôi có cách riêng để tồn tại và tôi cũng đã và đang làm nên chuyện. Tôi nhủ lòng nhiều lần rằng:
“Tại sao họ bỏ ta? Tại sao họ không hiểu điều ta đã làm tinh giản dể hiểu nhất? Tại sao ta không giữ được đứa học trò này? Tại sao ta đã không như thế này hoặc thế khác?”
Tôi cũng đã nhiều lần tự an ủi,
“Cớ gì ta phải đi xét đoán những kẻ không biết điều biết chuyện chứ.”
Cái chuyện cần biết nhất là việc học một ngôn ngữ đòi hỏi rất nhiều sự nổ lực cá nhân chứ không phải của do công lao của ông thầy dạy hoặc những cuốn sách, giáo trình cái thứ mà một nhóm người nào đó dựa trên một số kinh nghiệm nào đó xây dựng nên cho một nhóm học trò nhất định.   
   Sau khi đứng dạy những lớp mới và rất khó như- Nhà Thờ, Chùa, Công Ty Xi Măng Hà Tiên, Đại Học Ngoại Thương & Ngân Hàng, Cao Đẳng Nghề Việt Mỹ, Infoworld School, Bệnh Viện Bình Dân, Bệnh viện Bình An, mấy cán bộ trong ủy ban tỉnh, một nhóm Bác Sĩ Đại Học Y Dược hay một ông cha Phó quản hạt, tôi cảm thấy tự tin hơn rất nhiều. Sau khi phiên dịch cho bệnh viện vài lần, tôi dạn dĩ hẳn lên. Sau tiếp xúc với các giáo viên có vẻ hơn mình, các giáo viên ngoại quốc hoặc Việt kiều, tôi cảm thấy yên tâm, vững vàng hơn. Khi làm bài tập hoặc nghe viết đọc, tôi cảm thấy mình nhỏ bé hơn. Khi cùng nhóm học trò thiếu nhi hát các khúc hát ngắn do tôi viết lời, tôi thấy mình trẻ lại. Và khi tôi viết ra những gì tôi đã trải qua những điều tôi chiêm nghiệm được, tôi cảm thấy thảnh thơi nhẹ nhõm. Khi tôi xin việc tại Công Ty Bảo Hiểm Manulife ở Cần Thơ hoặc Prudential Finance ở Sài Gòn, tôi tự tin trả lời rằng,
“Từ một học sinh Nông Lâm Súc tôi thành thầy giáo, và từ một giáo viên xoàng, nay tôi có thể dạy đủ loại lớp và lên Sài Gòn dạy 7 trường trên Sài Gòn. Điều đó có thể chứng minh rằng tôi có thể làm được mọi chuyện tôi chọn hoặc muốn làm.”
Các thầy cô giáo ở Bảo Lộc ít nhiều gì cũng đã giúp tôi, đã tạo bên trong tôi cái chất sư phạm, cái lịch duyệt, cái bản lãnh cần có khi tôi đứng trước. Thầy Minh Híp, Thầy Hy, Thầy Bùi Tho, Thầy Vũ Thủy- triết học- và thầy Hùng Đô La đã khiến tôi nhớ họ mãi. Cô Nguyệt- Việt Văn, Cô Thành- Anh Văn- đã làm tôi thích học. Tôi hiểu và thông cảm khi thầy Lai Minh đỏ mặt, khi thầy Minh Híp nỗi giận. Tôi thầm phục Thầy Tân, lịch sự, hết lòng, tha thiết khi giải thích câu văn này, ý nghĩa nọ. Tôi hiểu tại sao thầy Niệm thường nhắc về trường Bảo Lộc. Mọi thầy cô giáo tôi đã học qua đều ghi nhận sự rỏ nét chuyên cần hết lòng của tôi. Các ông thầy đã phỏng vấn tôi trong những lần tôi thi ở Đ.H Từ Xa, đều thích cái cách tôi trò chuyện với họ, các câu tôi phúc đáp, thậm chí chất vấn họ nữa, thí dụ:
“Theo thầy, làm thế nào để dạy giỏi nhất?” hoặc,
“Sau bao nhiêu năm dạy học, điều gì khiến thấy, cô, theo đuổi nghề nghiệp đến ngày hôm nay?”
    Ít có ai trong số những giáo viên đang hành nghề đã từng đi học rất xa nhà, thất nghiệp, làm cầu thủ đá banh, thợ nấu rượu, thợ chụp hình dạo, thợ vẽ bảng hiệu và làm công nhân như tôi đã từng làm. Ít có ai trong số họ từng thức sớm khoảng 4 giờ sáng ròng rả 20 năm trời để tập luyện. Ông thầy tôi, Thầy Chu Sĩ Lương, đã lấy tôi ra như là tấm gương cho nhiều học trò của thầy. Thầy Danh- nỗi tiếng ở Rạch Giá- thường đố học trò của ông ta xem họ có biết tôi đến khi ấy có bao nhiêu cuốn băng cassette không như là cách động viên họ tập nghe. Một ông bạn học lớn tuổi hơn đã sững sờ khi nghe tôi trả lời cái số lượng băng ấy. Đài VOA Special English cũng đã viết thư, đề ngày Mar 3, 1997, để cảm ơn tôi,
“We’re much impressed that you have recorded almost 200 tapes of English language teaching programs.”
   Tôi có lẻ giống như các thấy cô khác thích tâm tình, nhưng bằng Anh Văn. Tôi kể hết cho học trò nghe về cuộc đời tôi. Không một chút do dự, tôi chỉ cho họ những gì tôi chiêm nghiệm sau nhiều năm, cái chất xám và cảm tính của người thầy giáo. Không ngại công khó, tôi lục tung các bài nghe rắc rối nhưng rất đời, các trích đoạn hay nhất để dạy họ.
  Một vài lần, các học trò cũ chào tôi, nhắc một vài kỹ niệm họ ghi nhớ rất rỏ về tôi- ôm đàn vào lớp hát bài này- hay dạy họ hát một khúc hát nọ, đội berret, mang cái còng bằng đồng. Nhưng nếu có bị ai phỏng vấn tôi điều gì khiến tôi dạy học được đến ngày hôm nay, tôi sẻ trả lời ngay rằng,
“Ba năm học ở Bảo Lộc, cái cách dạy của các Thầy Cô trên đó và cái nhóm máu NLS của riêng tôi đã thật sự giúp tôi đấy .”

                                                                                                                    Rạch Giá July 22, 2012

                                                                                                          Lương Ngọc Thành- Thành Xì 74 TL 

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2014

TRỞ VỀ

                                      TRỞ VỀ
     Mọi việc đều có cái khởi đầu và kết thúc- tốt đẹp hoặc phũ nhàng. Ngày tôi rời gia đình để lên Sài Gòn lập nghiệp, vợ và con gái đã ôm tôi khóc như mưa bấc. Hôm tôi trở về, họ cũng đã ôm tôi, nhưng cười như hoa xuân.
     Chuyện lên Sài Gòn để dạy Anh Văn, làm một nghề khác và học sau đại học là một điều tôi hằng ấp ủ. Tôi không thể hình dung tôi sẽ ra sao nếu tôi không thành công, nếu hai con tôi không phát triển tốt, vợ tôi chấp nhận. Tôi trình bày mọi chuyện với họ và đã tự hỏi,
“Có phải ta muốn làm một khác biệt không?”
    Thu nhập thấp, không có cơ hội tiếp xúc ở một tỉnh nhỏ, không có dịp học thêm gì nữa đã khiến tôi thất vọng, tự ti. Tôi trách mình đã không có được một khoảng tiền ít ỏi cho con tôi đi thi đại học, không tiền cho 2 lần sinh nhật của chúng nó. Tôi vui mừng khi nhận được một học trò, có một bài dịch. Trong những ngày Tết, khi nhiều người vui chơi tiêu xài, tôi làm cỏ ở sau vườn vì tôi không có khách hoặc học trò đến thăm. Bất cứ khi nào có điện thoại của bằng hữu , tôi đều phải toan tính, dè dặt. Bao giờ đi dự họp mặt lớp hay đám cưới của con bạn học, tôi đều phải về ngay vì lo sợ mất một người học. Tôi sắp bị trầm cảm hoặc đại loại như thế.
    Trên Sài Gòn tôi học được cái ý tưởng của Dough- một giáo viên Canada,
“Nhà, quê nhà ư? là nơi ta máng cái nón hay cái áo lên khi đi làm về.”
Ở nhà không chỉ có được như thế, tôi có thể khiến cho vợ con tôi vui mừng, yên Tôi khiến cho mọi người bên gia đình vợ tôi tiến bộ, người ở quê tôi biết cách học mới mẻ hơn. Hồi còn trẻ, tôi đã lên Dalat học và đã mơ có một học bổng đi du học.  
   Gary- người bạn Mỹ dạy chung với tôi- rất ngạc nhiên vì những gì tôi đang làm, những khó khăn tôi đang vượt qua, những thử thách và mục tiêu  trước mắt tôi. Hắn từng dạy học ở Nhật 3 năm, Hàn Quốc 3 năm và Trung Quốc hơn 2 năm. Khi gặp nhau, hắn đã dạy ở Sai Gòn hơn một năm rưởi. Gary và tôi bàn bạc về chuyện sống xa nhà và trở về. Hắn muốn có một gia đình ở Việt Nam. Tôi muốn đưa vợ con lên Sài Gòn chung sống. Gary và tôi ngày càng thân thích. Tôi giúp hắn khi hắn cần và hắn giúp tôi những gì hắn có thể. Ở đó, tôi có hắn làm bạn. Hắn dạy tôi nhiều điều. Hắn sửa chữa tôi nhiều lổi nhỏ. Hắn ngạc nhiên cách tôi dạy thiếu nhi. Cách tôi tập cho học trò với các bài nghe hay cách hai cha con tôi chung sống. Tôi đã tiếp xúc với nhiều giáo viên cũng đến Sài Gòn lập nghiệp như tôi. Tôi so sánh những gì họ và tôi làm được. Sống xa nhà thiếu thốn vất vả nhưng tôi tiến bộ và tôi đã khiến con trai tôi tiến bộ theo.
     Bà xã tôi không đồng ý theo tôi lên Sài Gòn và tôi không thể trở về quê có nghiã là chúng tôi phải ly dị nhau. Dĩ nhiên là điều đó không phải dể được hai con tôi chấp thuận. Sau nhiều lần cải cọ, sau nhiều lần quát tháo nhau trên điện thoại, việc ly dị nhau tạm lắng dịu. Tôi chờ đến ngày cuối cùng mới quyết định học sau đại học. Hồ sơ của tôi thiếu một thứ mà tôi không lường được: bảng điểm khi tốt nghiệp. Thất vọng về điều đó chưa kịp nguôi ngoai thì vào ngày sau đó, tôi nhận được một tin lạ, con gái tôi bắt đầu dậy thì. Tôi tự đúc kết soi xét mọi chuyện tôi trước đó cho đến khi đó làm. Tôi soạn thư chia tay với một số học trò thân. Tôi giúp Gary dọn nhà và tôi rất hy vọng hắn sẽ dạy khá lên. Tôi chờ đến khi nhận học phí của 2 học trò riêng của tôi. Dặn dò thằng con trai một số điều quan trọng, sau khi nhận lương của tháng dạy đó, tôi đã quyết định vào lúc 4:30 sáng ngày hôm sau chạy chiếc Vespa trở về nhà.
   Cuối năm 1980, tôi về đây để làm việc, mang trong lòng một tình thương mẹ, một ước mơ giản dị. Giờ tôi một lần nữa trở lại đây tiếp tục dạy học, với một tình thương con, một ước mơ đơn sơ như trước đây. Sau 30 năm, tôi học được một bài học lớn: chúng ta có thể bỏ tất cả vì một lý tưởng tốt đẹp. Chúng ta có thể bỏ lại tất cả vừa xây dựng được vì một lý do tốt đẹp. Có những chiến binh bỏ hết vì độc lập tự do. Có người bỏ lại hết, đi xa quê lập nghiệp. Có kẻ bỏ lại hết cái họ kiếm được để hồi hương. Có một số người ngông cuồng chạy theo một mục tiêu không rỏ ràng. Có kẻ lại đơn giản đi theo con đường sáng sủa. Có kẻ dại, có người khôn. Có kẻ đúng, có người sai. Tôi cũng chỉ là một con người.
  Ngay hôm tôi vừa về đến nhà, một phụ huynh hỏi cho đứa con trai học. Những ngày kế tiếp, có những người khác trực tiếp đến hỏi học.Tôi vui mừng ra mặt và vợ tôi không dấu diếm được nỗi hân hoan hy vọng. Tôi thật sự kiếm đủ cho gia đình nhưng không đủ cho chi phí của đứa con trai học ở Sài Gòn. Như những gì tôi đã tiên liệu. Có người khen, có kẻ tiếc nuối. Có người thắc mắc, có kẻ thông hiểu. Tôi tự hiểu mình hơn ai hết và tôi đã chiến thắng bản thân tôi. Hai cha con tôi ở chung, nấu cơm ăn chung, cùng nhau dịch tài liệu và hai cha con chúng tôi có chung một hoài bảo: Sống một cuộc sống khá hơn và học được nhiều hơn.
    Trên chiếc Vespa cũ kỹ, tôi đã chạy lên Sài Gòn, đã chạy đi dạy một số nơi với một hoài bảo và cũng trên chiếc xe ấy tôi chở về nhà một niềm hy vọng: Làm lại những gì tôi đã làm một cách tốt đẹp hơn như nhiều người ly hương, nhiều Việt kiều đã từng và đang làm.
                                                                            Rạch Giá 12 tháng 4 -2013
                                                                                                               Lương Ngọc Thành

                                                                                     

MỒNG HAI TẾT

                                          MỒNG HAI TẾT

  Có biết bao nhiêu điều người ta làm trong ngày mồng hai tết mà tôi có thể hình dung ra nhưng họ không thể tưởng tượng nỗi tôi đã làm gì từ 3 giờ sáng ngày thứ nhì của năm Nhâm Ngọ 2002.
   Có một dạo sau năm 1975, dãy phố ngay góc rẻ xuống Cầu Trắng, Tiệm Phú Vinh cũ, đã từng là nhà sách, cửa hàng văn hóa phẩm và là “Cửa hàng ăn uống”. Mỗi khi lên Bảo Lộc, đi ngang qua đây, tôi đều ghé mắt nhìn vào dảy phố ấy. Năm 1977, trong cửa hàng có treo một bức tranh sơn dầu đen trắng. Nó đập ngay vào tâm trí tôi và đã khiến tôi luôn ước ao vẽ lại nó trong khỏang 10 năm cho đến lúc tôi tình cờ mua được tập tranh của họa sĩ - giáo sư giảng dạy về phong cảnh người Nga- Ivan Ivanovich Shishkin (1832 – 1898). Bức tranh gây ấn tượng mạnh mẻ đến nổi ngày ngày tôi luôn  mong đến lúc vẽ lại cái phong cảnh rừng nỗi tiếng thế giới ấy. Chính vì thế mà trong lúc lên Dalat để kỷ niệm 5 năm ngày cưới 1989, tôi đã đặt mua một khung tranh 2 x 1,2 mét để chuẩn bị cho bức tranh tôi mong muốn chép vẽ lại.
    Vào năm 1998, ngay phía trước nhà, tôi mở ra một phòng vẽ quảng cáo như là cách kiếm thêm ít thu nhập, giúp được 2 nhân công và cách tôi tự khẳng định mình. Tôi có dịp thiết kế một số kiểu chữ, làm bảng hiệu mica hộp đèn lần đầu tiên tại Rạch Giá. Việc dạy học chiếm khá lớn thì giờ của tôi trong năm. Nhưng người học vội vàng nghỉ ngay rằm tháng chạp và đi học lại khoảng rằm tháng giêng. Họ khiến tôi mất một tháng thu nhập. Chưa có tết năm nào tôi vui sau khi có 3 năm liền tôi có nhóm học trò đến thăm vào ngày mồng 4 tết. Ngay sáng sớm ngày mồng hai, tôi đã từng sang lấp đất cái mương to phía sau vườn sau khi đã mua 15 mét khối đất ruộng. Có được khoảng đất 18 mét x 40 mét vườn sau nhà, tôi quyết định trồng xoài cát Hòa Lộc. Các cây giống chiết cành mau phát triển và mẹ tôi mau chóng có một niềm vui thật lớn với các bà bạn gần xa, có một vườn xoài thẳng tấp. Có năm tôi chọn việc làm cỏ miếng vườn ngay sáng mồng hai tết và từ chối đi qua Cần Thơ.
   Năm nào tôi cũng có lời mời của Thi Lùn lên Bảo Lộc, Cậu Doản lên Đà Lạt và Khuê Bầu qua Cần Thơ chơi tết. Bạn bè mong làm tôi vui nhưng làm sao tôi có thể vui thú gì khi mà tôi chẳng có một khoản để dành ít nhất cho tiền lì xì, tiền vé xe, tiền xăng, cho khoảng nhỏ để vá xe...? Làm sao tôi có thể thoải mái khi mà lòng tôi nặng nỗi lo mưu sinh, nỗi buồn cho cái cách tôi phải bó tay bó chân ở cái nơi mà cơ hội khá ít với tôi. Nhìn mẹ tôi ngày càng già đi, con tôi ngày càng lớn lên, tôi ngày càng buồn bả, lo toan, vẩn vơ, ngày ngày làm những điều phải làm chứ không phải những điều tôi ưa thích.
   Ngày 13 tháng 6 năm 2001, mẹ tôi vĩnh viển ra đi, để lại trong lòng tôi một lổ hỏng thật lớn, một nỗi buồn không thể diển tả được bằng lời và một nỗi đau không có loại thuốc men nào làm có thể làm thuyên giảm được. Cuối năm ấy, tôi mang ra cái khung tranh để ráp lại. Tôi sơn lót miếng ván ép và ráp vào khung. Chiều ngày mùng một, kê khung lên giá vẽ, bày biện các tube sơn dầu, cọ vẽ trên bàn để sáng sớm hôm sau, mồng hai tết, tôi vẽ lại bức tranh tôi đã nhìn thấy trên Bảo Lộc 23 năm trước.
   Từ 3 giờ 30 sáng ngày mồng hai, tôi bắt tay vào việc. Phóng bức tranh mẩu, 6 cm 5 x 4 cm 4 thành bức trang lớn hơn 30 lần. Tôi chọn tâm điểm là con gấu đứng ngước nhìn lên, mảng sương mù chung quanh là vùng ánh sáng tương phản. Suốt ngày mồng hai tôi chẳng hề có khách hoặc học trò đến thăm. Tôi chẳng hề phải nghỉ tay, không có một phút bận lòng. Tôi đứng trước giá vẽ như một tay thợ chép tranh mải mê việc cho kịp ngày giao cho khách hàng. Tôi quên hết mọi việc xảy ra chung quanh. Tôi chăm chú vào các đường nét rỏ nét nhất, các nhánh cây, vết nứt tét của cái cây thông và hàng trăm chi tiết sinh động sống thực khác.
   Ngày hôm sau, người đầu tiên nhìn thấy tôi vẽ là thầy Danh. Khi đi thể dục ngang nhà, ông thầy giáo có tiếng ở đây có thể cho rằng tôi có một bức tranh chép phải hoàn tất trong tháng giêng. Những ai khác có thể rất ngạc nhiên khi nhìn cái tông màu trắng đen và họ không thích thú gì với công việc tôi đang làm. Nhưng tôi chỉ làm cái tôi thích, vẽ ra cái tôi cảm nhận và muốn vẽ.
    Sáng ngày mồng 4, bức tranh dần hiện ra cái nội dung của nó. Con gái tôi ngây thơ ra phòng vẽ trước nhà ngắm nhìn.
“Ah, ba vẽ mấy con gấu của nhà mình.”
Tay chân bê bết các vết sơn dầu, tôi không thể xoa lên tóc con bé được. Cuối thấp người xuống, nhìn vào gương mặt xinh xắn của đứa con gái 4 tuổi, tôi hỏi ,
“Con gấu ba đâu? Gấu con đâu?”
Con bé trỏ ngón tay lên,
“Gấu ba to nhất đứng dưới đất. Gấu con đang đứng trên cây nhìn xuống gấu anh hai đó, phải không ba?”
Tôi cảm động hỏi nhỏ,
“Còn gấu mẹ đâu con?”
Ánh mắt sáng quắt, con bé tiếp tục chỉ tay qua bên phải một tí,
“Ba đang vẽ ra đó. Con gấu mẹ đang đứng canh chừng 2 anh em con đó!”
Tôi quay ngang giấu diếm giọt nước mắt ứa xuống. Tôi rất e ngại phải nghe nó hỏi,
“Gấu bà nội đâu rồi ba?”  
  Trên bàn thờ mẹ tôi, di ảnh của người rỏ ra đấy. Bà nhìn buồn bả, ư phiền. Mỗi khi cháu điều gì đấy sai quấy, tôi đều bảo cháu đến trước bàn thờ bà nội lạy bà 3 lần để xin lỗi. Nó thơ ngây không hiểu tại sao người ta cho “cái hộp bằng gỗ rất to” của bà cháu xuống đất ở trên Bà Điểm Hốc Môn. Nó có thể tự hỏi nay sao có hình bà nội trên cái bàn cao cao này. Khi muốn xin trái cây mà mẹ cháu vừa cúng bà nội, cháu đều hỏi tôi. Tôi nghiêm mặt lại trả lời con gái,
“Con ra xin bà nội đi con.”
Konica ngoan ngoản như anh nó, Canon. Nó làm theo lời tôi. Khi cháu trở lại, tôi hỏi,
“Bà nội nói sao vậy con?”
Nó thản nhiên nói dối với tôi,
“Nội nói, con muốn ăn gì thì cứ lấy đi.”
    Đến xế chiều ngày mồng 5, tôi có học trò ghé thăm. Vũ, cháu của Phước Mọi, từ Hà Tiên đến chúc tết tôi,
“Tết có gì vui không thầy?”
Chỉ vào bức tranh sắp hoàn chỉnh, tôi trả lời,
“Niềm vui rất lớn tôi mới có ở trong đó đó.”
Tôi nhờ hắn phụ một tay để treo tác phẩm của tôi lên ngay giửa phòng khách như người ta treo một vật quý giá nhất. Tôi nhìn ra các nét cọ vụng về, thô thiển và tôi tự hứa sẽ có ngày tôi mang nó xuống để tô điểm lại. Ngày ấy có thể sẽ là ngày mồng hai tết của năm nào đó tôi vừa có một mất mát nào khác.   
     Đến khi con gái đủ khôn lớn, tôi sẽ kể cho nó nghe cái gì tôi đang vẽ ra hôm nay đây, bốn con gấu trong rừng. Cuộc đời giống như một cánh rừng to lớn mênh mông vô tận. Cuộc đời như một mái nhà chung cho nhiều thứ. Nó có thể chứa mọi thứ đẹp xấu. Nó cũng có thể chứa mọi thứ rất giá trị, rất vô giá trị. Trong đời, biết bao nhiêu nỗi hiểm nguy điều tốt đẹp, biết ngần nào là cơ may, mất mát. Người ta được sinh ra đời như ai đó đi vào rừng mà không có một chút hiểu biết gì về nó cả. Mỗi người giống như một lá cây trong rừng. Sau khi rụng xuống, chiếc lá trở về với đất mẹ. Nó sẽ được hồi sinh ở một thế giới mới mẻ nào khác hoặc nó chỉ sẽ nằm yên nơi đấy với mẹ cho đến mục rữa thành một phần của mẹ.
                                                       Rạch Giá, mồng hai tết năm Quý tỵ

                                                                             Lương Ngọc Thành 

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

ĐOẠN CUỐI CỦA NHỮNG MỐI TÌNH

                       ĐOẠN CUỐI CỦA NHỮNG MỐI TÌNH

    Thật đáng kể ra đoạn cuối của những mối tình cái sẽ đóng góp vào những chuyện đời thường, vào làng văn chương của nhân loại.
     Sau khi dang dỡ, người ta thường trách cứ, thắc mắc, oán hận và thậm chí còn trả thù nhau. Có kẻ thì tạ ơn người tình cũ vì chính họ học được, hiểu ra nhiều điều. Họ mạnh mẻ hơn, sáng suốt hơn và nhất là họ sống với nhiều hạnh phúc hơn như hoặc ngược lại. Có biết bao nhiêu là phim ảnh, sách báo, thơ ca, nghiên cứu, vụ án, kiện tụng và thậm chí là chuyện tếu, giai thoại về những đoạn cuối này.
     T.V đã tạo ra một đoạn cuối như nhiều người phụ nữ đã làm, âm thầm lập gia đình. Sau 5 năm, cố tình tìm gặp Phúc Lùn- một bạn NLS Bảo Lộc- để tìm ra địa chỉ của tôi, nàng viết thư thăm tôi. Trong những bức thư ấy, có một đoạn rất đáng kể,
“Em mong có dịp anh về Cần Thơ. Anh nhớ ghé thăm em và con.”
“Em và con!” tôi thản thốt kêu lên.
Chỉ với vài chữ thêm vào nữa, tôi có thể mất mạng như chơi. Một bức thư khác đã khiến tôi lo lắng mất ăn mất ngủ vì nàng viết như thế này,
“Chồng em đi bộ đội, hiện đóng quân bên Phú Quốc. Em muốn anh đưa em đi thăm anh ấy.”
May thay chuyện nàng đi thăm chồng đã không diển ra. Thật ra không ai đọc được cụm từ: “thăm em và con” cho nên tôi bình an vô sự. Nhưng tôi, 3 năm sau, đã ghé thăm nàng …với bà xã tôi sau khi chúng tôi về từ Đà lạt ngày cuối trong 2 tuần trăng mật. Buồn cười thay, trong ánh đèn dầu, nàng chụm đầu vào tôi xem hình đám cưới, hỏi chuyện về gia đình tôi như một người em. Một lúc sau, bà vợ tôi vì thẹn thùn phải tìm cách tránh mặt.
    Năm 1983, chia tay với N.N xong, tôi trở thành anh nuôi của nàng. Cùng với, chị, hoặc cháu, nàng đã xuống Rạch Giá 4 lần để đi thăm người anh hai trong tù. Nhà tôi là địa chỉ duy nhất mà nàng có thể ghé lại. Vài lần lên SG, tôi ghé thăm má nuôi của tôi và dĩ nhiên là có gặp nàng. Theo cái cách Tây phương, bà má tôi bảo chúng tôi đi ra ngoài chơi. Trong lúc uống cà phê, “cô em nuôi”, mỉm cười, hỏi tôi một câu rất tự nhiên,
“Hey, Sao you có vợ sớm quá vậy?”
Tôi phải giải bày tâm sự cái mà lẻ ra nàng cũng đã tự hiểu được.
Trong một dịp thật riêng được đối ẩm với người cha nuôi, tôi đã hỏi ông một câu cũng rất đáng được kể ra đây,
“Thưa ba! Việc con có vợ ở Rạch Giá có làm ba buồn không, ba?”
Có ai ngờ rằng ba nuôi của tôi, sau khi cạn một chun rượu thuốc, đã trả lời tôi rằng,
“Ba thấy con có phước mới không phải lấy nó đó.”
Ba năm sau, thay mặt mẹ, nàng đã viết thư mời tôi lên dự một tiệc chia tay và sáng hôm sau chia tay nàng với ba má đi định cư bên New Zealand. Trong thư, có một câu ngắn ngọn: “đừng cho vợ anh biết.”nhưng nàng vô tình- hay cố ý- đã gây ra trong lòng bà xã một ấn tượng rất xấu.
   Ngược lại với nhiều dự đoán, B.V đã gọi điện để cảm ơn cái truyện tôi đã viết bằng tiếng anh có tựa đề: B.V. Đó là lần đầu tiên chúng tôi trò chuyện với nhau sau 27 năm sau ngày ra trường. Sau đó, tại SG, sau khi được con cô gái dịch rõ nghĩa hơn, hai mẹ con nàng gọi tôi lần thứ nhì. Có một câu nói- dù với ai đó là khá bình thường- đáng để tôi lưu lại suốt đời,
“Thế hồi đó sao anh không nói?”
Từ đáy lòng, tôi cũng đã trả lời một câu đáng được người đời ghi lại,
“Chỉ vì anh muốn giữ những hình ảnh của B.V. đẹp mãi như một bức tranh.”
Có cơ hội hỏi chuyện “người dịch truyện”, tôi hỏi cô con gái của B.V,
“Trong truyện B.V, đoạn nào cháu thích nhất”?
“Cái đoạn bác đang nằm nghỉ trưa trên bải cỏ khi mẹ cháu từ Hoàng Hoa Lộ rẻ vào. Nhìn thấy mẹ cháu đi đến, bác muốn biến mất để hai người không phải thẹn đỏ mặt.”
     Ôi thật đẹp biết bao những kỷ niệm thời đi học! Ôi thật đáng yêu quý những hình ảnh đẹp trong lúc cắp sách đến trường. Ôi thật đáng nhớ những ánh mắt, những cái gật đầu chào nhau thật nhẹ, những tà áo dài nâu. Ôi thật đặc biệt các con đường, các buổi sáng mù sương, các buổi chiều mưa phùn. Ôi thật dể đi vào lòng người những tình khúc mà trong đó các nhạc sĩ viết rất nhiều về cái đoạn cuối ấy nhiều đến nổi không có một thư viện nào chứa hết được.
“Nàng em hởi! con đường em đi đó, con đường em theo đó, đúng đấy em ơi!”
“Tội nghiệp quá xây những lâu đài cát mơ…”
“Em đi qua đời anh, không nhớ gì…sao em?”
Họ cũng đặt nhiều tựa đề: “Niệm phút cuối”, “Lời cuối cho một cuộc tình”. Có vô vàn những bài hát tiếng Anh với: “The end of a love affair” ai cũng có thể tìm thấy trên Google.
   Như những đoạn cuối thật bất ngờ trong đời, mối tình của tôi với Y.T cũng thế. Sau khi xa cách nhau, tôi viết thư qua đảo thăm nàng. Có tin đồn rằng tin nàng về nước vài lần, nhưng tôi chưa nghe nàng gọi. Bổng một hôm, tôi có cuộc gọi của một cô bạn học cũ,
“Có người muốn nói chuyện với anh nè. Anh biết là ai không?”
Tôi đoán trúng ngay người muốn gọi tôi. Sau 25 năm, tôi mới có dịp trò chuyện với nàng. Nàng sau đó gởi tôi một bưu thiếp trong chuyến holiday nước ngoài với ông chồng ngoại. Quý thay cái tình cũ nghĩa xưa! Quý thay cái nghĩa bằng hữu!
Về đến nhà xong, nàng mail ngay cho và hàng ngày chúng tôi trao đổi mail như kiểu một thẩm phán tra hỏi nột nghi phạm. Tất cả thắc mắc, dày vò, đau khỗ, trách hờn của nàng được tôi giải trình như một bị cáo tự bào chữa. Xong chuyện xưa cũ rồi, nàng kể tôi nghe những gì xảy đến trong cuộc đời nàng. Tôi thật lòng khâm phục người chồng hiền hậu, rộng lượng, chìu vợ đó. Trong về chuyến sau đó, đi gần đến đây, nàng có gọi tôi. Đâu ai ngờ rằng nàng khéo léo bảo bác tài xế chạy chậm ngang nhà tôi để… “biết đâu tình cờ nhìn thấy tôi”- theo lời của nàng. Tại hotel, nàng nhờ người gọi tôi ra đó để uống nước trong chốc lát để gặp tạn mặt tôi. Thật đáng để tôi quý mến. Sau khi dạy xong, tôi đến nơi hẹn thì mới hay nàng và ông chồng tây lên phòng rồi. Tôi gởi quà lại cho receptionist. Về Mỹ lần này, nàng mail như hai người bạn học cũ, thân thiết. Vặn hỏi tôi chuyện tương lai, sau nghe tôi kể về cái mong muốn đi học Thạc sĩ giảng dạy trên SG, nàng tán thành và để góp sức nàng đã tự nguyện gửi tặng tôi một số tiền mà tôi cất giấu như một báu vật. Biết nàng sống khá buồn tẻ, ít có việc để làm, tôi đã gửi truyện để nàng dịch hoặc hiệu đính giùm tôi. Sau bao hơn 30 năm cách trở, chúng tôi trở thành bạn của nhau.  
   Trên SG, tôi vật lộn kiếm chỗ dạy, kiếm tiền để chờ ngày nộp đơn đi học. Thoạt đầu, nàng không có vẻ mặn mòi với những gì tôi đang phải trải qua và tôi không có chút nào mong mỏi từ nàng cả. Cứ vài ngày, tôi có mail của nàng. Nào là những clip tếu, nào là những địa chỉ tự học Anh văn, nào là những hình ảnh nàng đi chuyến dài ngày với chồng, nào là những tấm hình “cháu nội của nàng” gốc Đức-Mỹ và trong tất cả những mail đó và dự tính mở một trang web về trường cũ. Không có ai đo được bao nhiêu tình bạn nàng đã đặt vào trong đó. Đến khi nhận được tin tôi dạy một lớp tại trung tâm ngoại ngữ của ĐH Ngân Hàng trên Thủ Đức ngay sau trường cũ, nàng vô cùng thán phục tôi. Biết tôi sau khi dạy 12 tiết một ngày, tối về phải dịch bài gấp cho một công ty với thằng con trai đến nửa đêm, nàng thật lo cho sức khỏe của tôi. Vừa được mail tôi, nàng lập tức trả lời. Tôi chớm vui mỗi khi có clip nào nàng forward cho tôi. Vì tôi chưa hề viết câu nào than với mẹ tôi trong suốt ba năm trên Bảo Lộc cho nên tôi cũng chưa than vản với nàng bất cứ điều gì. Vài ngày liền nàng cứ vặn hỏi thẳng xem tôi cần gì để nàng có thể giúp đở. Lo ngại cái laptop cũ của tôi bị hư bất ngờ, tôi đắn đo trả lời,
“I just need a second-hand laptop”
“Anh chỉ cần một cái laptop cũ.”
   Lần đầu tiên bằng tiếng Anh, nàng mail trả lời gọn ghẽ như thế này,
“NO, I CAN’T HELP YOU.”

                                                                                      Rạch Giá Sep 24, 2011
                                                                           Lương Ngọc Thành





HỌ HỌP MẶT NHAU NHƯ THẾ NÀO- phần 2

HỌ HỌP MẶT NHAU NHƯ THẾ NÀO- phần 2

    Năm nay sau đám cưới con của Nguyễn Minh Hùng, trưa ngày 6-10- 2013 tại Bảo Lộc, lớp Công Thôn 72 họp mặt lần thứ IV vào chiều cùng ngày.
    Sau 12 giờ trên xe 2 chuyến xe, từ Rạch Giá, tôi đến Bảo Lộc lúc 10 giờ sáng với cái nắng ấm áp sau gần một tháng trời mưa dầm. Gặp Mạ Chánh, năm nay 84 tuổi, tôi vui mừng như thể tôi là đứa từ xa mới về thăm mẹ. Hồng hào, khỏe mạnh, linh hoạt, mạ Chánh khiến cho những ai không còn mẹ như tôi phải ngậm ngùi. Người Chương, anh cả, từ Mỹ về trước tôi 4 ngày và mới hôm qua đây một đoàn của lớp tôi cũng đã dừng chân ở đây trên đường họ đi Phan Rang dự lễ hội Katê theo lời mời của Đặng Khôi, người Chàm duy nhất trong lớp tôi.
   Trò chuyện với Mạ và anh Chương một đổi. Chúng tôi vui như đang trong một ngày hội. Xin Mạ bó nhang, tôi ra thăm mộ Long Kh’mer. Đứng phía trước phần mộ của thằng bạn vắn số, tôi ngắm nhìn núi Đại Bình, sừng sững chiếm hết tầm mắt tôi. Bầu trời xanh, mây trắng, lòng tôi như bay bổng trộn lẩn vào cái rộng lớn khoáng đạt của quang cảnh trước mặt. Lặng thinh hồi tưởng những gì đã xảy ra giửa hai chúng tôi, những gì tôi đã nhận được từ Long Kh’mer, những lần tôi được nó ghé thăm, tôi như họp mặt với người bạn đã ra đi 29 năm. Giật mình khi đọc trên mộ bia, “mất ngày: 19- 8 1984”, tôi thầm kêu lên,
“Ôi, Long Kh’mer mất đúng ngày vào ngày sinh của ta.”
Tôi cũng tự hỏi ai trước đó đã cắm hoa cho cả 3 ngôi mộ, ngay bên phải là mộ của ba mẹ của Long. Trước khi chia tay nó, cắm hết những cây nhang còn xót lại, nhìn mộ bia của Long, vuốt tay lên những viên gạch rạn nức, tôi nói nhỏ với nó,
“Ghé thăm mày một tí nghen, Long!”
   Không nhận được trả lời, tôi sau đó biết rằng cô em “góa bụa” đang bận một đám tang của đứa cháu nên không thể dự hoặc đưa tôi cùng đi đám cưới được. Tôi nhận được hai cuộc gọi để khẳng định rằng đúng là tôi vừa có mặt. Chờ nhóm các thầy cô từ bốn nơi khác nhau, Long Xuyên, Châu Đốc, Tây Ninh và Hốc Môn, tôi, từ Rạch Giá nhập cuộc. Chủ hôn Minh Hùng và phu nhân hân hạnh bắt tay thật chặt những người trong đoàn khách thật đặc biệt ấy.
   Tiệc cưới thật đông vui, khách ngồi kín nhà hàng Tâm Châu, có đến gần 1.000 khách mời. Mọi người thật hân hoan rộn rả. Thầy Phước chỉ tôi ngồi vào ghế cạnh thầy. Thầy và tôi bàn ngay chuyện viết lách, bài vỡ. Hùng Sùi và tôi “giao lưu” với hai bàn cạnh bên. Đông giới thiệu tôi với bà xã của hắn, một đọc giả mới của tôi. Hỏi ra tôi biết Đông lớn hơn tôi 11 ngày tuổi và hai phu nhân của chúng tôi có cùng một tuồi, cùng một dáng người. Tôi vui lên khi nhận ra sự thân thiện nhưng vẫn có cái tôn ti vai vế của Đông.
   Tôi hỏi đùa phu nhân của Đông,
 “Anh cũng tuổi mùi, nhỏ hơn Đông, nhưng vì có ăn cỏ tươi nên trông thấy trẻ hơn. Sao em và Đông có nhiều đuôi mắt quá vậy. Hai vợ chồng đi căng da mặt đi nghen.”
  Cô dâu cả của lớp 72 CT chỉ có mỉm cười. Các thầy luôn vui vẻ nâng ly khi có học trò đến mời uống bia. Dù không nói được gì nhiều với nhau vì tiếng nhạc ồn ào, chúng tôi thầm hiểu rằng chiều nay mới là lúc chúng tôi trò chuyện kể lể.
   Chiều có mưa phùn nhưng chúng tôi, gần 40 người, vẫn đến đúng giờ. Nhờ hai cô cháu gái phục vụ Minh Hùng đã khiến chúng tôi dù lên lầu 3 của hội trường của Khách Sạn Công Đoàn cứ cảm thấy như đang ở nhà. Khi khai mạc, thầy Nguyễn Văn Hanh mong có các cuộc họp mặt tại tư gia.
Thầy Tho, thầy Kính vẫn khỏe mạnh như năm trước nhưng thầy Phước nay rất gầy. Thầy Sơn có vẻ như chưa nhập cuộc lắm. Thầy cô được chúng tôi tặng hoa như cái cách cùa học trò tuổi đôi mươi vậy. Cao Thanh Đông cũng trịnh trọng như mọi khi,
 “Khắp mọi miền đất nước đều có học trò NLS cho nên thật khó để gặp mặt nhau. Thật thú vị, bổ ích khi chúng ta kêu lên tiếng thầy, cô. Thật đả khi gặp nhau đùa tếu, kêu mày xưng tao với nhau. Thật đả mắt khi mặc vào cái áo nâu và nhìn nhau trong màu truyền thống có một không hai ấy.
   Bất cứ thứ gì mà chúng ta học được, có được, làm được và nhớ được nên tung lên cho thế giới này biết. Đâu phải ai cũng có được những điều chúng ta đang có.”  
  Như lần trước, tôi được mời chia xẻ cảm nghĩ. Tôi đã vào đề ngay,
  “Khi được Minh Hùng gọi mời, tôi nghĩ ngay đến một món quà và đây…”
Tôi trưng ra món qùa, “Kỷ niệm chương- Họp mặt Nông Lâm Súc- lần thứ 4” một cho người tổ chức và một cho thầy hiệu trưởng cuối cùng của NLS Bảo Lộc. Tôi sau đó nhắc đến bài phát thanh của VOA về họp mặt trung học. Chính Bill Clinton đã bắt tay chào đón từng người bạn học của phu nhân ông ta khi bà tổ chức họp mặt lớp tại nhà trắng. Tôi nhắc lại hai lần rằng,
  “Không chỉ họp mặt lớp, đây còn là cuộc họp mặt các khóa, các ban khác nhau và các thầy cô xa gần. Có nên chăng chúng ta gọi đây là cuộc họp “lớp Công Thôn 72 Mở Rộng.”
    Anh Phạn Ngọc Ẩn, CT khóa 1 từ Phan thiết, đã nhắc đến nhiều kỷ niệm và cảm xúc khi về Bảo Lộc về sự tiếc rẻ rằng lớp anh nay không thể họp mặt nhau được với quá ít tin tức, liên lạc nhau. Ngọc Quang, TL 72, hàng xóm với lớp CT 72, thì rất hào hứng khi kể về chuyện vui buồn của những tháng ngày sau khi rời xa mái trường và sau đó bắt nhịp bài Hành Khúc Nông Lâm Mục.
    Đa số hát karaoke, trò chuyện cụng ly cho đến khi có một số chào ra về. Dù vừa thuyên giảm một cơn bệnh tim, thầy Phước bảo tụi tôi tìm một ít rượu. Chung Gạo vội mang đến chai Sake đứa con gái mang từ Nhật về. Mọi người quay quần trong một phòng nghỉ cạnh bên để tiếp tục buổi họp mặt. Nhóm Đà Lạt phải chia tay chúng tôi lúc 10 giờ rưỡi. Thầy Ngôn bổng cho biết hôm ấy là sinh nhật của Thầy. Chúng tôi vội hát “Happy birthday” và buổi tiệc dang dở ấy trở thành tiệc sinh nhật thật bất ngờ, không nến, không bánh kem mà chỉ với một ít trái cây do Vũ thị Tịnh mang đến. Tịnh rất muốn có cây đàn guitar để hát còn tôi thì thích nghe những chuyện về trường. Thầy Ngôn kể cho chúng tôi rất nhiều chuyện mà ít có học trò khác có thể nghe được. Không màng đến thời giờ, xong vụ việc này, thầy Ngôn nhắc đến chuyện khác, xong về thầy này, thầy nhắc đến cô khác. Thầy Ngôn không ngại ngùng nói lên những cảm nhận thật, những suy nghĩ thầm kín khác. Chúng tôi lắng nghe, riêng tôi có gắng ghi nhớ, đôi lúc có thắc mắc, và thầy Ngôn tiếp tục.
    Một đổi thầy Phước qua phòng chúng tôi, một chốc sau thầy lại trở về phòng nghỉ ngơi. Cái đêm ấy như dài thêm ra. Đến 2 giờ sáng, nhóm các thầy cô phải ra xe về Sài Gòn. Anh Độ và tôi chờ xe lên Đà Lạt. Thầy Ngôn, Đông và vài người bạn như còn luyến tiếc ở lại qua đêm.
    Nhóm ở Bảo Lộc quyến luyến chia tay mọi người mà họ rất mong gặp hằng năm ở đây. Đất trời Bảo Lộc cũng rất mong gặp lại những người như chúng tôi kẻ luôn luôn đặt Bảo Lộc vào một vị trí trân trọng nhất trong tim.  
                                                                      Rạch Giá 18-10-2013