Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG- O. Henry

      

                                                                       

              Nhiều họa sĩ đã sinh sống trong vùng Greenwich Village ở New York. Trong số họ, có hai phụ nữ trẻ tuổi tên là Sue và Johnsy. Hai nữ họa sĩ trẻ ấy đã chia nhau sống trong một căn phòng, có một khoảng không gian rộng để làm họ nơi sáng tác. Nó nằm trên tầng trên cùng của một tòa nhà 3 tầng.
                Trong tháng mười, đã có một khách lạ đến đây. Không ai đã từng thấy mặt của hắn. Hắn chỉ ghé lại thành phố một chốc lát để đi một vòng như để tìm kiếm một thứ gì đó, một ai đó, một điều bí ẩn.
                Một căn bệnh sưng phổi bùng phát và đã giết chết nhiều người trong vùng này sau khi hắn âm thầm bỏ ra đi như cái cách hắn không bao lâu trước đó đến nơi đây.
      Johnsy nằm trên giường bệnh, khó lòng nào mà động đậy được một chút nào. Nàng nhìn qua cửa sổ. Nàng có thể nhìn thấy vách nhà bằng gạch nằm kế bên tòa chung cư của nàng đang ở. Một buổi sáng, khi có một bác sĩ đến khám bệnh cho Johnsy. Vị bác sĩ đo thân nhiệt. Đoạn, ông ta đã nói chuyện với Sue trong một phòng riêng khác.
“Tôi rất tiếc để phải nói rằng cô ấy có một cơ hội sống sót… ta cứ cho là 10% đi.”
Ông ta nói với Sue, đang chú ý lắng nghe một cách lo lắng.
“Và cơ hội đó là cho nàng để sống sót. Người bạn của cô mới vừa biết rằng nàng không sắp sửa khỏe lại đâu. Thế trong đầu của cô ta có điều gì không? Cô ấy có dự tính, kế hoạch gì hay không?”
“Cô ấy đã muốn vẽ bức, “Vịnh Naples ở Ý " một ngày nào đó,” Sue nói.
“Vẽ ư!?” vị bác sĩ nói một cách ngạc nhiên.
“Trong tâm trí nàng không lẻ có điều gì đáng để nàng suy nghĩ đến 2 lần sao?.. một gả đàn ông, thí dụ vậy?”
“Một người đàn ông à?” Sue hỏi lại.
“Bộ một người đàng ông có giá trị gì đấy hay sao?”
“ Nhưng không đâu, bác sĩ ơi! Không có điều gì đáng cho chuyện này.”
“Tôi sẽ làm tất cả cái gì mà khoa học có thể làm được.” ông bác sĩ thuyết phục.
“Nhưng bất cứ khi nào bệnh nhân của tôi bắt đầu đếm số xe đưa đám ma của họ, tôi tận dụng 50% khả năng trị bệnh của thuốc men."
Sau khi vị bác sĩ vừa đi khỏi, Sue vội đi vào trong phòng làm việc và bật khóc.
Rồi nàng đi tới phòng của Johnsy với một bảng vẽ, huýt sáo một đoạn nhạc rag.
Johnsy đang nằm đó quay mặt hướng về cửa sổ.
Sue ngưng huýt sáo vì nghĩ rằng người bạn bệnh hoạn kia đang ngủ ngon.
Cô ta bắt đầu chuẩn bị viết và mực vẽ cho một câu chuyện trong một tạp chí.
Những nghệ sĩ phải làm việc cái kiểu làm nghệ thuật vị nghệ thuật bởi việc làm ra các hình vẽ minh họa được cho các câu chuyện trong tạp chí phải mất rất nhiều công sức nhưng kiếm được rất ít tiền.
Sue nghe một âm thanh nhỏ cứ lập đi lập lại. Nàng đi vội đến bên giường bệnh và nhìn thấy Johnsy đang mở hai mắt thật to. Nàng đã đang nhìn ra ngoài cửa sổ và đếm…. đếm ngược.
“Mười hai” nàng tính nhẫm.
Một chốc sau đó, “mười một” và rồi “mười” và “chín” và rồi “tám” và “bảy” và tổng cộng hết cả lại.
Sue nhìn ra ngoài cửa sổ,
“Này! Johnsy, đếm cái gì ở ngoài kia vậy?”
Chỉ có mỗi một miếng vườn trống và một khoảng sân cách vách nhà 7 mét. Một dây leo già, bắt đầu hư cỗi ở phần rễ, đang bám lên phân nữa bức tường. Hơi thở lạnh của mùa thu trước lúc ấy đã làm rụng một số lá trên thân dây, cho đến các nhánh của nó, gần như là trơ trụi, treo trên các viên gạch.
“Bạn này, cái gì thế?” Sue tra hỏi.
“Sáu,” Johnsy nói rất nhỏ.
“Bọn chúng sắp rụng xuống nhanh hơn nữa đây.” buồn bả nàng nói tiếp.
“Mới ba ngày trước đây, đã còn gần 100 lá. Đếm số lá làm tôi đau cả đầu. Nhưng bây giờ thì dể đi rồi. Này rơi thêm một lá nữa kia rồi. Chỉ còn mỗi 5 chiếc lá nữa thôi. ”
“Năm cái gì thế, Johnsy?" Sue hỏi người bạn bệnh hoạn kia.
“Những chiếc lá trên cành kia. Khi chiếc cuối cùng rơi xuống, tôi chắc cũng phải ra đi theo nó mất thôi."
“Tôi biết chuyện này được 3 ngày rồi đấy. Thế ông bác sĩ đến nay chưa nói gì với bạn sao? Hả Joe?”
“Oh, tôi đã chưa hề nghe điều gì cả.” Sue nói.
“Những cái lá vàng úa đó phải làm gì với chuyện bạn khỏe mạnh lên thế?
Và bạn đã từng yêu những lá đó à! Đừng có điên thế.”Nàng đang cố trấn an người bạn thân thiết nhất đời nàng.
“Tại sao, bác sĩ đã bảo tôi sáng nay rằng cơ hội của bạn để khỏe nhanh chóng là…để xem chính xác bác sĩ nói thế nào nào…Ổng nói cơ hội là 10 trên một.  Cố húp thêm một ít súp nhé. Và để tôi đi vẽ lại để tôi có thể bán cho tờ tạp chí ấy và để mua ít thực phẩm và rượu đỏ cho hai đứa mình.”               
“Bạn chẳng cần mua thêm rượu đỏ đâu,"
Johnsy nói cứ để nguyên hai mắt nhìn về ra cửa sổ.
“Lại rơi thêm một chiếc nữa kia rồi. Không đâu, tôi chẳng muốn một tí súp nào nữa cả. Số lá bây giờ là 4. Tôi muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi trước khi trời tối. Rồi tôi sẽ đi theo nó thôi.”
“Johnsy thân thương của tôi ơi,” Sue tha thiết nói.
“Bạn sẽ hứa với tôi là bạn sẽ nhắm mắt lại chặt và không nhìn ra ngoài cửa sổ cho tới khi tôi làm xong công việc này nhé?”
Sue nói một cách khẩn thiết.
“Tôi phải giao những bản vẽ này vào ngày mai.”
Sue có vẻ muốn Johnsy yên lòng.  
“Cho tôi biết ngay khi bạn hoàn thành nhé,” Johnsy nói thế rồi nhắm mắt lại và nằm trên giường trắng nhạt như một bức tượng đang nằm. Nàng nói thì thào,
“Tôi muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi xuống. Tôi chán việc chờ đợi này lắm rồi. Tôi chán việc suy nghĩ quá rồi. Tôi muốn buông thỏng mọi thứ trên đời này và đi lái buồm, xuống, xuống giống như một trong những chiếc lá tội nghiệp, mệt mỏi kia. ”
“Thôi cố gắng ngủ một tí đi nhé,” Sue nói.
“Tôi phải gọi ông Behrman lên đây làm người mẩu cho bức vẽ của tôi về một người thợ mỏ già. Đừng cố động đậy gì cho đến khi tôi trở về.”
   Ông già Behrman là một họa sĩ vốn lây nay sống một mình ở tầng trệt của tòa chung cư này. Trong giới làm nghệ thuật, lảo ta là một kẻ thất bại. Từ hàng nhiều năm nay cho đến lúc này, ông ta luôn cố vẽ một tác phẩm lớn nhưng ông ta đến giờ phút này chưa hề bắt đầu nó. Ông già nhỏ thó tội nghiệp ấy kiếm được ít tiền nhờ vào việc làm người mẩu cho các họa sĩ những ai không thể trả tiền cho các người mẩu chuyên nghiệp. Hắn nay trông già nua và hung tợn. Lảo ta cũng còn làm bảo vệ cho hai người phụ nữ trẻ sống tầng bên trên hắn, Joe và Johnsy.  
Sue tìm gặp lảo già Behrman trong phòng của ông ta. Trong một khoảng trống, có một khung tranh trống không, chờ đợi mảng mầu đầu tiên của lảo được 25 năm nay rồi.
Sue kể cho lảo nghe về Johnsy và nỗi lo sợ rằng người bạn của nàng rồi cũng sẽ rơi rụng như những chiếc lá khô kia.
Lảo già Behrman nỗi giận vì cái suy nghĩ điên khùng ấy.
“Có ai trên đời này lại có cái suy nghĩ về cái chết như một chiếc lá rụng một cách rồ dại như thế chứ? Tại sao cô lại để cho cái ý nghĩ ngu ngốc ấy lọt vào trong tâm trí của nàng ta như thế cơ chứ?
“Cô ta quá yếu đuối bệnh hoạn." Sue đáp nhỏ nhẹ.
“Và căn bệnh đã chiếm nửa phần trong tâm trí nàng mất rồi."
 “Đây không phải là nơi để cho một ai tốt lành như quý cô Johnsy phải nằm bệnh. Rồi có ngày tôi sẽ vẽ một tuyệt phẩm và tất cả chúng ta sẽ rời khỏi nơi này.”
Khi hai người lên lầu, Johnsy đang ngủ ngon. Johnsy was sleeping. Sue khẻ đóng lại cái rèm cửa sổ. Rồi Behrman và nàng rón rén bước vào một phòng khác.
Họ lo lắng mông lung nhìn ra chiếc lá trên cái dây leo mãnh khãnh đàng kia. Rồi cả hai nhìn nhau im lặng với hai ý tưởng riêng biệt nhau.
Cơn mưa lạnh giá với các hạt tuyết nhỏ trộn lẩn rơi rơi xuống chậm chạm.
Ông già Behrman ngồi xuống trong tư thế của một gả thợ mỏ.
Sáng hôm sau, trải một giờ ngủ chập chờn ngắn ngủi, Sue chợt tỉnh dậy.
Nàng nhận thấy Johnsy với hai mắt trắng bệt đang liếc nhìn ra cái cửa sổ đã bị che rèm.
"Kéo màng ra nào, Sue. Tớ muốn ngắm nhìn ra ngoài,"
Johnsy yêu cầu một cách nhỏ nhẹ và Sue làm theo lời nàng.
Sau cơn mưa như đập xuống đất với các trận cuồng phong suốt đêm qua, nhưng vẫn còn nguyên đó một chiếc lá nằm trên nhánh cây khô bám trên tường. Nó là chiếc lá cuối cùng. Còn có một vùng màu xanh đậm ở giửa thân lá nhưng hai rìa lá đã nhuộm màu vàng úa.
Nó nằm trơ trọi, treo trên một nhánh nhỏ cách mặt đất hàng 7 mét.
"Nó là chiếc lá cuối cùng đấy," Johnsy tự nói khẻ.
"Ta đã nghĩ rằng nó hổng chừng rơi xuống trong đêm qua rồi. Ta đã nghe gió mạnh. Hôm nay thế nào nó cũng sẽ rơi và ta sẽ cùng nó ra đi.”
"Ồ, bạn thân ơi!"
Sue cuối gương mặt nhợt nhạt mệt mỏi xuống giường để nói khẻ vào tai Johnsy.
"Nghĩ đến tớ đây này nếu cậu không nghĩ đến bản thân cậu nữa. Bây giờ tớ phải làm gì đây cho cậu hả?"
Nhưng Johnsy đã không đáp trả.
Sáng hôm sau, khi trời hừng sáng, Johnsy yêu cầu mở tấm rèm cửa sổ ra ngay.
Chiếc lá trên thân dây leo ấy vẫn còn đấy.
Johnsy nằm yên lặng và ngắm nhìn nó thật chăm chú.
Và rồi nàng gọi Sue khi người bạn tốt của nàng đã đang nấu súp.
"Tớ quả là một cô gái tồi tệ," Johnsy tự trách mình.
"Có điều gì đó đã khiến chiếc lá ấy vẫn còn ở yên đấy để cho tớ biết tớ tệ biết đến dường nào. Thật là sai trái khi muốn chết đi. Giờ mang cho tớ một ít súp đi nào."
Khoảng một giờ sau, nàng nói tiếp,
"Hôm nào đó, tớ mong sẽ vẽ được bức tranh “Vịnh Naples."
Một chốc sau trong hôm ấy, vị bác sĩ trở lại và Sue trò chuyện với ông ta ngay tại hành lang.
"Hai cơ hội đều nhau," ông bác sĩ tuyên bố.
"Chăm sóc tốt, hai vị sẽ chiến thắng. Và giờ đây tôi phải đi chăm lo cho một ca khác nữa trong tòa nhà này. Tôi cho rằng tên bệnh nhân là Behrman, một loại nghệ sĩ. Bệnh sưng phổi nữa rồi. Ông ấy yếu đuối, già nua và ca này nghiêm trọng đấy. Chẳng có hy vọng gì nhưng ông ta nhập viện hôm nay để mong giảm bệnh.”


Ngày kế đó, bác sĩ bảo với Sue,
“Cô đã chinh phục được cơn bệnh đấy. Johnsy, bạn cô, vừa qua cơn hiểm nghèo. Cô thắng rồi, chất dinh dưỡng và việc chăm sóc chu đáo, thế thôi.”
Chiều tối hôm ấy, đến giường bệnh của Johnsy, Sue choàng cánh tay qua người bạn vừa khỏe mạnh.
"Tớ có chuyện này muốn kể cho cậu nghe này,"
Sue nói chậm rải từ tốn vừa đủ cho cô bạn nghe.
"Ông già Berhman vừa chết trong bệnh viện đấy. Ông ta bệnh có 2 ngày. Trong ngày đầu tiên, người ta tìm thấy ông ta tại phòng dưới lầu trong cơn đau đớn tuyệt vọng.
Đôi giày và quần áo đã hoàn toàn ướt sũng và đông đá. Thiên hạ không thể tượng tượng nỗi ông ta đã phải chịu đựng cái lạnh khủng khiếp của đêm hôm qua. Và người ta đã tìm thấy cái đèn lồng, còn cháy sáng.
Rồi người ta một cái thang trước đó được bị ai đó dời đi. Và các cây cọ, vài tuýt sơn dầu và một bản vẽ với hai màu xanh vàng được trộn lẩn trên ấy.
Nhìn ra ngoài cửa sổ xem nào, Johnsy, ngắm nhìn cái lá còn trên tường đó!
Bộ cậu đã không nhận ra rằng nó không bao giờ lay động khi gió thổi mạnh sao chứ?  
Ah, bạn thân của tớ này! Đó là tuyệt phẩm của ông già tội nghiệp Berhman. Ông ta đã vẽ nó trong đêm qua ngay sau khi chiếc lá cuối cùng rơi xuống đấy!”
                                                                                            Sài Gòn 17-10-2014
                                                                                                                                   Lương Ngọc Thành

                                                                                                                  (Lược dịch truyện “The last leaf của O. Henry)

HẠNH PHÚC VÀ LÒNG BIẾT ƠN

                   

    Có một điều gì đó mà quý vị biết về tôi, điều có tính chất rất cá nhân. Và cũng có điều gì đó tôi cũng biết về mỗi người trong quý vị đây. Và đó chính là tâm điểm của những điều quan tâm của quý vị.
    Lại có một điều mà chúng ta biết về mọi người chúng ta sẽ gặp gở trên thế giới này, trên những con đường và khắp mọi nơi. Đó là sức bật chánh, động lực chủ yếu trong bất cứ điều gì mà họ làm và bất cứ điều gì mà họ theo đuổi. Và điều đó chính là, “Tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc.”
Trong điều ước muốn này chúng ta cùng chung tay, chung sức chung lòng cùng với nhau. Chúng ta tưởng tượng hạnh phúc của chúng ta như thế nào đây? Cái của hạnh phúc của người này thì khác với cái hạnh phúc của người kia. Nhưng rỏ ràng là có rất nhiều điều chúng ta có chung với nhau. Đó là chúng ta đều muốn được hạnh phúc.
Nhưng bây giờ, đề tài diển thuyết của tôi là lòng biết ơn, biết tình, biết nghĩa.
Thế mối liên hệ giửa hạnh phúc và lòng biết ơn là như thế nào? Nhiều người hổng chừng nói ngay rằng, “Ôi! Cái chuyện đó thì rất dể hiểu thôi!”
Khi quý vị có hạnh phúc, quý vị biết ơn. Nhưng hảy suy nghĩ lại đi!
Có phải đúng là bất cứ ai có hạnh phúc đều cũng biết ơn không?
Chúng ta đều biết là có rất nhiều người, họ có mọi thứ. Họ có những thứ mà hổng chừng sẽ mang hạnh phúc đến cho họ. Nhưng họ lại không hạnh phúc. Bởi vì họ lại muốn những thứ khác hơn thế. Hoặc họ muốn có nhiều hơn nữa những thứ như vậy. Và tất cả chúng ta cũng biết rằng trên đời này có rất nhiều người bất hạnh, những nỗi bất hạnh mà chúng ta không bao giờ muốn có. Nhưng họ lại là những người hạnh phúc.
Họ phát tán ra hạnh phúc. Họ tạo ra hạnh phúc.
Quý vị có ngạc nhiên không? Tại sao vậy? Bởi vì họ biết ơn.
Thế nên không phải niềm hạnh phúc làm chúng ta biết ơn đâu mà chính là lòng biết ơn khiến chúng ta hạnh phúc đấy, kính thưa quý vị!
Nếu mà quý vị cứ nghĩ rằng chính hạnh phúc làm chúng ta biết ơn thì quý vị nên suy nghĩ lại đi!
Đúng là lòng biết ơn là cái làm cho quý vị hạnh phúc đấy. Giờ đây, chúng ta có thể tự hỏi,
“Chúng ta thật sự ý muốn nói gì với thuật ngữ “lòng biết ơn”?” và “lòng biết ơn” đó tác động như thế nào, tạo ra được điều gì?”
Tôi kêu gọi kinh nghiệm riêng của chính quý vị.
Chúng ta đều biết rằng kinh nghiệm tác động như thế nào đến chúng ta. Có điều gì chúng ta nhận thức được, nó có giá trị và điều đó thật sự được ban phát cho chúng ta. Hai điều này phải kết hợp lại với nhau. Nó phải là cái gì đó có giá trị và nó thật sự là một món quà. Quý vị đến nay chưa bao giờ mua được nó. Quý vị đến giờ này chưa hề thu nhận được nó. Quý vị đến lúc này chưa trao đổi điều gì, vật gì để có được nó. Đến giây phút này, quý vị cũng chưa làm bất cứ một điều gì cho nó cả.
Nó chỉ được giao đến cho quý vị thôi. Và khi mà hai điều này kết hợp lại với nhau, đối với cá nhân tôi, có gì đó thật sự giá trị. Và tôi nhận thức rằng nó được cho một cách tự do, free of charge, tự nguyện không tốn phí. Rồi thì lòng biết ơn trỗi lên một cách hòa điệu trong tim tôi, hạnh phúc do vậy cũng dấy lên trong tim tôi luôn nữa.
Đấy là cách mà niềm hạnh phúc đến với tôi. Bây giờ, cái điều mấu chốt ở chỗ là chúng ta không phải thỉnh thoảng mới trải nghiệm được điều này đâu. Chúng ta không có thể nào chỉ có mỗi những trải nghiệm về sự biết ơn thôi đâu. Chúng ta có thể là những người sống có biết ơn xâu, nặng nghĩa, nặng tình. Việc sống có ân tình là một chuyện. Nhưng làm thế nào để sống cho có tình, có nghĩa lại là một chuyện khác? Bởi việc trải nghiệm, bởi việc dần dần nhận thức rằng mỗi khoảnh khắc trong cuộc đời của chúng ta là mỗi khoảng khắc được giao cho, được ban cho. Và như chúng ta thường nói, “Nó là một món quà.”
Quý vị đến giờ này cũng chưa thu nhận được nó. Quý vị đến bây giờ cũng chưa mang nó đến với quý vị bất kể bằng cách nào.
Quý vị không có cách chi để bảo đảm rằng sẽ có một khoảnh khắc nào khác được ban cho qúy vị. Tuy nhiên, đó là điều giá trị nhất. Cái điều ấy có thể được ban cho chúng ta tính đến thời khắc này. Nó có tất cả những cơ hội mà nó chứa đựng trong chính nó.
   Nếu mà chúng ta không thể nào có được khoảnh khắc hiện tại này, chúng ta chắc cũng khó lòng nào mà có được bất kỳ cơ hội nào khác để làm bất cứ điều gì, trải nghiệm bất cứ chuyện gì khác được.
Và khoảng khắc này là một món quà. Nó là món quà được ban phát không cho chúng ta như chúng ta đã từng nghe nói lâu nay.
Giờ đây, chúng ta nói về món quà mà trong đó nó thật sự là cái cơ hội. Cái chuyện mà quý vị mang ơn là cơ hội chứ không phải là một điều gì khác, không phải như một vật gì khác được ban cho quý vị đâu. Bởi vì nếu “món quà ấy” mà có ở chổ nào khác, và quý vị đã không có cái cơ hội đó, để thưởng thức nó, để làm điều gì đó với nó, thì quý vị hổng chừng không biết ơn nó đâu!
 Cơ hội là món quà bên trong mỗi món quà. Và chúng ta đều có biết một thành ngữ và cũng thường nhắc nhở với nhau rằng,
“Cơ hội chỉ đến có một lần thôi!” Àh, quý vị suy nghĩ lại đi!
Mỗi một thời điểm là một cơ hội, mãi mãi, hoài hoài. Và nếu quý vị vuột mất cơ hội của thời điểm này, thì một cơ hội khác lại được ban cho qúy vị, vào một khoảnh khắc khác. Chúng ta có thể hoặc tự thân tận dụng nó hoặc giả là chúng ta bỏ nhỡ nó.
Và nếu chúng ta tận dụng được cái cơ hội này, nó chính là cái chìa khóa mở ra cánh cửa hạnh phúc. Chúng ta cầm giử cái chìa khóa chánh để mở cửa hạnh phúc ngay trong lòng bàn tay của chính chúng ta. Từng thời điểm một, chúng ta có thể biết ơn vì việc được ban cho cái món quà này.
    Có phải như vậy là chúng ta phải mang ơn mọi thứ không? Chắc chắn là không phải rồi? Chúng ta không biết ơn chiến tranh, bạo lực, sự chống đối, sự bóc lột. Ở mức độ cá nhân, chúng ta không thể mang ơn sự mất mát của một người bạn, sự bất nghĩa, lòng bội bạc hoặc việc tước đoạt. Tôi đã không nói rằng chúng ta biết ơn mọi thứ mà tôi đã nói rằng chúng ta biết ơn trong những khoảnh khắc được ban cho chúng ta, cho chúng ta một cơ hội. Và ngay cả khi chúng ta phải tìm cách đương đầu với cái điều gì đấy khó khăn khủng khiếp, chúng ta có thể vươn lên đến cơ hội này và tiếp xúc, gặp gỡ nó. Nó không tệ đến nỗi gì đâu!
Thật sự ra, khi quý vị ngắm nhìn nó và trải nghiệm nó, quý vị nhận ra nó mọi lúc.
Cái gì được giao cho chúng ta chính là cái cơ hội để thưởng thức. Và chúng ta lại hụt mất nó, bỏ nhỡ nó. Bởi vì chúng ta vồ vập, vội vả, đầu tắt, mặt tối và chúng ta phải bôn ba, chạy đôn chạy đáo để lo cho cuộc mưu sinh để có một đời sống tốt đẹp hơn trong suốt cuộc đời này. Và nhất là chúng ta không sắp sửa dừng lại để nhìn thấy cái cơ hội đó.
Nhưng thỉnh thoảng, có cái gì đó rất…rất khó được ban cho chúng ta. Và khi điều khó khăn này xảy ra với chúng ta, nó là một thách thức để vươn tới cơ hội ấy. Và chúng ta có thể vươn tới nó bởi việc học điều gì đó. Đôi khi chúng ta bị khá đớn đau đấy. Việc học tập lòng kiên nhẫn là một thí dụ.
Từ lâu nay chúng ta được dạy bảo rằng,
“Con đường tới hòa bình không phải là con đường để chạy nước rút. Nó khá giống với con đường để chạy marathon đấy.”
Việc chạy marathon chắn chắn là phải đòi hỏi lòng kiên nhẩn. Điều này thật là khó khăn. Nó có thể xuất hiện vì chính kiến của quý vị, xuất hiện vì đức tin của quý vị. Đó là một cơ hội được ban cho chúng ta để chúng ta học, để chịu đựng và để chống đỡ. Tất cả những cơ hội này được giao cho chúng ta. Nhưng chúng nó chỉ là những cơ hội mà thôi! Và những ai người mà tự thân tận dụng được chúng thì thường được chúng ta ngưỡng mộ, tôn trọng.
    Họ tạo ra điều gì đó mới mẻ tốt đẹp cho cuộc đời này. Và những ai, kẻ chịu thất bại, thường thường lại là người nắm bắt được một cơ hội khác. Đó là một trong những cái phong phú tuyệt vời của cuộc đời này.
Thế nên làm sao chúng ta có thể tìm ra một phương cách để giử chặt cơ hội này? Làm thế nào chúng ta có thể tìm ra một cách thức cho việc sống một cách có ơn, có nghĩa, để không phải chỉ thỉnh thoảng được hạnh phúc nhưng trong từng mỗi khoảnh khắc một cách biết ân tình, biết nghĩa vụ? Làm sao chúng ta có thể làm được điều này? Nó là một phương pháp đơn giản. Nó thật sự quá đơn giản đến nỗi nó đúng như là cái chuyện mà chúng ta đã được bố mẹ dạy bảo lúc còn trẻ con về việc băng qua đường vậy thôi. “Dừng lại. Nhìn. Bước qua.” Có vậy thôi!  Nhưng chúng ta thường dừng lại như thế nào? Chúng ta vội vả bôn ba, chạy đôn, chạy đáo suốt cả cuộc đời này. Chúng ta hoặc không biết, hoặc không chịu dừng lại. Chúng ta nhỡ cơ hội nhưng chúng ta không chịu dừng lại. Chúng ta phải dừng lại! Chúng ta phải yên lặng! Chúng ta phải xây dựng lên những bảng hiệu “Dừng lại”- “Stop” trong cuộc đời của chính chúng ta.
   Khi tôi sống ở Châu Phi vài năm trước đây và rồi tôi đã quay trở lại đấy, tôi chú ý đến nước sinh hoạt. Ở Châu phi, nơi tôi sống, tôi đã không có nước uống được. Mỗi khi tôi mở vòi nước ra, tôi đã bị choáng. Mỗi lần tôi bật công tác đèn lên, tôi đã rất biết ơn. Ánh sáng đã làm tôi rất vui, rất hạnh phúc. Nhưng sau một lúc, ánh sáng lịm tắc dần. Thế nên tôi dán lên một miếng sticker nhỏ lên cái công tắc đèn và trên cái vòi nước. Và rồi cứ mỗi khi tôi mở vòi lên, nước chảy! Thế thôi vậy…
      Tôi bỏ dỡ câu chuyện ở đó để quý vị tự tưởng tượng ra điều gì sẽ xảy ra.
Quý vị có thể nhận ra bất cứ điều gì cái điều mà tác động tốt nhất cho quý vị không? Tuy nhiên qúy vị cần những bảng hiệu stop trong cuộc đời của quý vị. Khi quý vị dừng lại, điều kế tiếp là ngắm nhìn. Quý vị nhìn ngắm. Quý vị mở hai mắt ra. Quý vị tận dụng tất cả ngũ giác để nhận ra cái sự phong phú tuyệt diệu vừa được giao cho, được ban cho quý vị. Không có sự kết thúc, không có dấu chấm hết.
 Và đó chính là tất cả những cái gì thuộc về cuộc đời này, thưởng thức, tận hưởng, những gì mà cuộc đời này ban tặng cho chúng ta.
    Rồi thì chúng ta cũng có thể mở lòng ra, những tấm lòng. Chúng ta cho những cơ hội. Bởi vì những cơ hội này có thể giúp những kẻ khác, để làm họ được hạnh phúc. Bởi vì không điều gì khiến chúng ta hạnh phúc hơn là khi tất cả mọi người chúng ta cùng được hạnh phúc. Và khi chúng ta mở tâm hồn ra tới những cơ hội, những cơ hội đấy mời chúng ta làm một điều gì đấy. Đó là điều thứ ba.
   Dừng lại, nhìn ngắm và rồi đi tới và thật sự làm một điều gì đi! Và cái gì chúng ta có thể làm là bất cứ điều gì mà cuộc đời này giao cho chúng ta trong cái khoảnh khắc hiện tại. Đa phần, nó là cơ hội để thưởng thức. Nhưng cũng có lúc, nó là điều gì đó khó khăn hơn thế nhiều.
    Nhưng bất kể nó là cái gì, nếu như chúng ta nắm bắt lấy cơ hội này, chúng ta tận dụng nó, chúng ta sáng tạo. Chúng ta là những người sáng tạo. Và cái dừng ngắn ngủi ấy, ngắm nhìn, tiếp tục, quả đúng là cái hột giống tốt. Cái hột giống tốt này có thể làm thay đổi cái thế giới này của chúng ta. Bởi vì chúng ta cần, chúng ta sống trong cái thời điểm hiện tại, trong trung tâm của một thay đổi về sự nhận thức. Và quý vị sẽ bị ngạc nhiên.
Tôi luôn ngạc nhiên khi tôi nghe biết bao nhiêu lần cụm từ “lòng biết ơn” và “sự tri ân” thể hiện ra. Mọi nơi, mọi lúc, ở đâu đó, qúy vị có thể nhận ra nó, một hảng hàng không có ân tình, một nhà hàng biết ơn nghĩa, một quán cà phê có tình nghĩa và một thứ rượu tình nghĩa. Đúng thế, thậm chí, tôi vừa đi liếc qua một loại giấy vệ sinh, cái hiệu của nó là “Cảm ơn”.
Có một làn sóng của lòng biết ơn bởi vì người ta đang trở nên ý thức hơn về tầm quan trọng về nó. Và ta ý thức được lòng biết ơn có thể thay đổi thế giới của chúng ta như thế nào.
   Nó có thể thay đổi thế giới của chúng ta theo những cách cực kỳ quan trọng. Bởi vì nếu quý vị biết ơn, quý vị không còn sợ, quý vị không bạo lực. Nếu quý vị biết ơn, quý vị thoát ra được cái cảm nhận đủ mà không phải là cái cảm nhận sợ hải. Và thế cho nên quý vị mong muốn chia xẻ. Nếu quý vị biết ơn, quý vị đang thưởng thức những cái khác biệt giửa những con người. Và quý vị kính trọng mọi người và điều này làm thay đổi cái quy luật “sức mạnh của kim tự tháp” mà chúng ta đang sống với nó. Nó không làm ra sự bình đẳng. Và bình đẳng là điều quan trọng. Tương lai của thế giới này sẽ là một mạng lưới chứ không phải là một kim tự tháp, không phải là cái kim tự tháp bị đảo lộn ngược đầu. Cuộc cách mạng cái mà tôi đang nói đến là một cuộc cách mạng không có bạo lực. Nó có tính cách mạng rất cao đến nỗi nó có thể thậm chí làm cách mạng từng mỗi quan điểm của một cuộc cách mạng. Bởi vì một cuộc cải cách bình thường là một cái nơi mà có một kim tự tháp mạnh mẻ xoay ngược đầu lại. Và những ai kẻ đã nằm ở dưới đáy thì nay được dời lên trên đỉnh và điều chính xác cũng cùng diển ra- ai đang ở trên đỉnh sẽ bị dời xuống đáy.
Cái điều chúng ta cần là một mạng lưới của những nhóm nhỏ hơn. Trong những nhóm nhỏ  ấy, người ta hiểu biết lẩn nhau. Và đó là một thế giới có ân tình.
   Một thế giới tình nghĩa là một thế giới dành cho những người vui vẻ. Người biết ơn là người vui vẻ và càng có nhiều người vui vẻ, chúng ta càng có một thế giới vui vẻ. Chúng ta có một mạng lưới của những sinh vật biết ân tình. Và nó vừa nở rộ lên đấy. Chúng ta không thể hiểu được tại sao nó vừa mọc lên. Chúng ta có một cơ hội cho con người để thắp sáng lên một cây nến khi mà chúng ta mang ơn cái thứ gì đấy. Và đến nay, có đến 15 triệu ngọn nến sáng lung linh trong một thập niên. Người ta hiện đang nhận biết rằng một thế giới biết ân nghĩa là một thế giới hạnh phúc. Và chúng ta tất cả đều có cái cơ hội ấy bởi một cái dừng lại đơn giản, nhìn, tiến tới để thay đổi cái thế giới này, để biến nó thành một nơi hạnh phúc.
  Và đó là điều mà tôi hy vọng cho chúng ta. Và nếu như nó vừa mới góp một chút ít gì vào việc khiến cho quý vị muốn làm điều tương tự, vậy thì, “Dừng lại, nhìn, tiến tới đi!”                           
                                                                              Sydney, Sep 4, 2014
                                                                               Lương Ngọc Thành

                                               (Lược dịch theo bài diển văn của David Steindl-Rast)     

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014

MÃNH BẰNG

                            

    “Mãnh bằng” ở đây không có nghiã là “a certificate” của tiếng Anh nó là một trong những bài hát nổi tiếng của nhóm AVT của cố nhạc sĩ Lữ Liên, và đó đã là bài hát mà chúng tôi đã biểu diển hai lần tại “Đại Thính Đường.”

     Trong năm học lớp mười, 1971, chúng tôi chưa đóng góp gì nhiều cho trường ngoại trừ việc ba đứa tôi tham gia vào chương trình văn nghệ cuối năm với bài hát “Mãnh bằng.” Trọng Thỏ là thằng nhát như thỏ nhưng nó đàn hay như một nghệ sĩ. Cậu Doãn có giọng hát bè rất độc đáo và nó vốn là người Bắc. Biết loại nhạc của AVT này từ hồi còn bé, thường ngân nga hát một mình suốt bài “Mãnh bằng” thành thục, tôi nghiễm nhiên trở thành người tập hát cho nhóm chúng tôi dẩu rằng tôi không phải là người hát hay nhất. Tôi cũng là người quyết định trang phục cho nhóm. Tôi nhớ rất rỏ trang phục của ban AVT, áo gấm thụng 3 màu, khăn đống, và các cây đàn đúng truyền thống Việt Nam.

    Nhưng với truyền thống của nhóm Bụi Gia Trang từ hồi ở NLS Cần Thơ, tôi chọn ngay áo kaki vàng. Câu hỏi còn lại là:mặc quần gì?”. Tôi cũng phải quyết định luôn, quần Jeans xanh bạc màu. Tôi phải tra hỏi từng thằng trong lớp, đi mượn quần về cho hai chàng kia mặc thử rồi phải sửa lại cho vừa và tôi tìm cho ra ba sợi dây nịch cùng màu, cùng kiểu.             Đêm đầu tiên, khi đi xem chương trình một biểu diển, ba đứa tôi quá choáng ngợp vì cái phong cách chuyên nghiệp của lớp đàn anh- 11 Thủy Lâm. Họ không có một nét gì của một ban nhạc học trò. Họ chơi nhạc Rock và hát tiếng Anh như một ban nhạc trẻ của Sài Gòn, thậm chí tôi cho rằng còn hay hơn. Đại Thính Đường là nơi chúng tôi lần đầu tiên bước vào. Nhạc rock là thứ lần đầu tiên tôi nghe thấy. Tôi không có cái ấn tượng xấu về nó như thằng Trọng Thỏ- cổ hủ, nhưng tôi trân trọng mọi điều tôi được tận mắt tận tai nghe thấy. Các ban, các lớp khác cũng diển khá hay với dàn nhạc, trang phục, trang điểm và có khi còn múa phụ họa nữa chứ. Họ đã khiến hai anh chàng cùng ban nhạc của tôi chùng bước.  Tôi kích động họ bằng một câu đơn giản,
    “Mỗi người có một cách riêng để khẳng định mình. Bài mình hát là vô địch.”

   Không có ông bầu cũng không có lấy một cổ động viên, tự ba đứa tôi tập và mỗi đứa tự chia đoạn, đọc lời thoại và nhắc nhau tập luyện. Trọng Thỏ nói thoại với giọng nam bộ, Cậu Doản dĩ nhiên là nói giọng bắc rồi và tôi phải “chơi” giọng Huế- khó nhất. Tôi cũng phải đứng ra trách nhiệm về ca từ, cách biểu diển, thậm chí phải ngâm câu hát câu đầu tiên. Ban nhạc AVT xử dụng đàn sến, đàn cò và đàn tỳ bà. Chúng tôi chỉ có mỗi một cây đàn Ghi ta. Cây đàn của tôi được Trọng Thỏ chọn vì nó có tiếng vang và nhìn gọn đẹp . Đêm sau, bài chúng tôi diển được xếp áp chót khi mà không khí trong Đại Thính Đường đã thật sự thấm trộn vào cái chất học trò của ngôi trường này, hồn nhiên, trân trọng, hết mình, trào phúng và độc đáo. Chúng tôi ra sân khấu lần đầu tiên trong đời và đã hát bài này hay nhất trong đời học trò từ trước cho đến lúc đó,
   “Cái bằng đâu lạ gì ai ơi. Cái bằng đo chỉ một gang thôi mà sao con gái mà sao con gái họ ham quá trời.”

      Câu hát này được tán thưởng nhiều hơn chúng tôi có thể nghĩ ra nỗi. Tràng vỗ tay và tiếng cười từ khán giả làm nức lòng ba đứa tôi. Tôi nói lời thoại,
   “Nhưng mà em bé nói với anh ra làm” răng”?”  rất ư là Huế đến mức sau này có lời đồn đại là tôi người gốc Huế. Buổi diển là một khởi đầu rất đẹp trong sự nghiệp văn nghệ của ba đứa tôi nói riêng, của lớp chúng tôi nói chung và của trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc nữa chứ- nếu đem so với trường T.H Lê Lợi?

      Năm lớp 12, năm chúng tôi thi ra trường- đậu hoặc rớt- đi lính, Thầy Hùng Đô La được nhà trường giao làm trưởng ban tổ chức văn nghệ. Thầy rất đồng tình với bài Mãng Bằng mà tôi đề nghị và vì rất hiểu nổi khó khăn của việc học thi nên đã tuyên bố trước lớp,
“Tụi em cứ tự sắp xếp tập tành cho thuần thục. Tụi em lên sân khấu và hát được là hay rồi. Không cần lên Đại Thính Đường để dợt trước gì cả.”

     Lần này- lần diển cuối cùng của chúng tôi ở trường này, tôi chọn mặt áo nâu, 3 cái áo cùng màu nâu cùng kiểu. Lần này chúng tôi đã thật sự hiểu ý nghĩa của bài hát, cái thâm thúy của ca từ mà nhạc sĩ Lữ Liên chắc phải cực công lắm để viết ra. Tôi nhận ra bao nỗi cay đắng của việc có hay không có một mãnh bằng. Lần này tôi thấu rỏ cái ý nghĩa của bao đêm tôi học khuya, bao khó khăn của những bài toán tôi giải được, bao niềm vui nổi buồn tôi sắp phải mang theo đến hết cuộc đời và  bao nhiêu điều tôi không thể thố lộ được hoặc vì ngôn từ Việt Nam không có đủ để tôi diển tả. Tôi thật thấm thía cái mất mát, xa cách ngôi trường, cái khoản thời gian tuyệt vời mà tôi đã cảm nhận được. Lần này tôi đã nói giọng Huế giống hơn lần trước và lần này tôi có hai khán giả rất đặc biệt: Bác Thiện- người sẽ đải chúng tôi nồi chè đậu và Bích Vân- người tôi tình cờ gặp bên của hông Đại Thính Đường trước khi vào diển. Chúng tôi hát hay hơn lần trước nhiều và tôi có đủ tự tin để nhìn xuống khán giả- chật ních rạp đêm ấy. Tôi vào câu đầu tiên rất ngọt,
À này anh... sách vẫn có câu...cho rằng xưa nay... nghịch nhất là ma, thứ nhì là quỷ... ấy đến thứ ba là học trò. Nhưng mà có học mới biết rằng lo. Có thi mới biết… cam go…đoạn trường.”
Trọng Thỏ- bận tay chơi đàn- nên hát không khác lần trước bao nhiêu. Nhưng Cậu Doản, với giọng đặc chất Bắc, hát hay hơn lần trước nhiều và hay nhìn tôi mỉm cười hơn.
     “ Có người thi để làm quan sang. Có người thi cử mà vinh quang. Còn tôi mong kiếm... còn tôi mong kiếm cơm ăn nhờ bằng.”

    Ba giọng của chúng tôi trộn vào nhau. Ý nghĩa của câu hát trộn vào cuộc đời của học trò của mọi người từng cắp sách đế trường. Chắc chắn ban nhạc AVT, Lữ Liên, Vân Sơn và Tuấn Đăng- khi ấy còn sống- cũng vỗ tay tán thưởng và mỉm cười với tụi tôi thôi,
   “Thật đúng người, đúng bài và đúng lúc!”,
   “Mấy tay này hát nghe cũng được chứ nhỉ!”.
Mấy anh chàng chuẩn bị lều chỏng lên kinh ứng thí” chắc phải rúng động. Các chàng nào lâu nay bỏ bê việc học vì nhiều lý lẻ khác nhau rồi sẽ thắm cái đoạn này đến hết cuộc đời,
“Ngày xưa lúc tuổi còn ấu thơ tình tang, bố tôi mà thường nói con ráng học cho mà chuyên cần. Học nhiều thì ấm vào thân...ối a… biếng lười sau chỉ...tình tang... bám chân...đàn bà! Vợ con nó bắt coi nhà... đuổi gà... Biết nhục thì ráng... ối a ... học mà làm to. Tú tài nên ký.. nên cò...tình tang. Bác sĩ mà dân kiết, dân cúm, dân ho là giàu. K sư tay trắng xây lầu.. tang tình. Luật sư dắt vợ... ối a lại giàu hồi môn. Ráng mà học lớp sĩ quan. Vợ sinh năm một, nhiều lon… đếm con mà lượm tiền.”

       Tiếng reo hò, vổ tay huýt sáo nghe dài hơn các bài khác trong đêm đó. Với chúng tôi nó không quan trọng bằng cái điều mà chúng tôi vừa rót vào lòng các học sinh và thầy cô giáo cái ý nghĩa của học hành, thi cử, may rủi, thành bại trong đời và cái thâm thúy của tiếng Việt trong ca từ của bài độc nhất vô nhị này từ thập niên 60 cho đến tận ngày nay.
  Riêng với tôi, thế nào tôi cũng dâng cho mẹ tôi xem một mãnh bằng, “Tú Tài Trung Học Nông Lâm Súc Bảo Lộc- ngành ThủyLâm.

                                                                             Rạch Giá , Nov 22, 09
                                                                              Lương Ngọc Thành

                                                                              Thành Xì TL71-74 

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

CON ĐƯỜNG ĐẾN HẠNH PHÚC

                                 

    Mọi người dường như đang bước vào cái “trào lưu được hạnh phúc hơn”. Hạnh phúc là việc được xuất hiện trên báo chí, việc bán sách, làm các cuộc nghiên cứu khoa học thú vị, gia nhập các câu lạc bộ vui chơi hoặc dự các cuộc hội thảo về chuyện vui thú. Thế nhưng lý do là gì?
    Như ngành tâm lý tích cực vừa mới cho thấy, người hạnh phúc là người có nhiều nổ lực. Họ tích cực hơn, có hiệu quả hơn, kiếm được nhiều tiền, thu hút được nhiều bạn bè hơn, có hạnh phúc trong hôn nhân nhiều hơn, có tâm trạng hạnh phúc hơn và thậm chí họ sống thọ hơn các người cùng ở lứa tuổi nhưng nóng tánh hơn họ.
   “Tưởng tượng mà xem một loại thuốc giúp cho quý vị sống 9 năm lâu hơn, thu nhập hàng năm cao hơn và ít có khả năng ly dị hơn.” theo lời tiến sĩ Martin Seligman, người đã bắt đầu cuộc vận động tâm lý tích cực hồi thập niên trước, “Hạnh phúc dường như là loại thuốc đấy.”
  Tuy nhiên có những người khác tự hỏi liệu rằng phải chăng đây là một điều nữa khiến chúng ta cảm thấy bị nhiều áp lực hơn trong cuộc sống mà vốn đã bị quá tải rồi, với quá nhiều áp đặt rồi hay không? Làm sao có thể có một con đường hạnh phúc chung cho mọi người chúng ta được chứ? Và nếu chúng ta không cảm thấy hạnh phúc, có phải chúng ta là những người thất bại trong việc đi tìm kiếm nó không? Vài kẻ hoài nghi đã bác bỏ “chủ nghĩa hạnh phúc” như là một xu thế sống vội mới nhất. Cái ý tưởng là sự thay đổi hành vi thái độ có thể tạo ra hạnh phúc thật sự đúng là hoặc có thể là chuyện bịa đặt, theo tiến sĩ Charles Goodstein tại ĐH New York.
     Điểm lại hàng ngàn cuộc thí nghệm, các nhà nghiên cứu về hạnh phúc tuyên bố rằng hạnh phúc có thể được đo lường, được tạo lập ra. Nếu quý vị mong muốn tạo một cơ hội làm lại từ đầu trong cuộc đời để mưu tìm hạnh phúc bất chấp những người phản bác! Sau đây là vài lời khuyên.
Nuôi dưỡng hạnh phúc tự nhiên:
  Như hàng 4000 cặp song sinh đến nay cho thấy, “gen” đóng góp khoảng 50% tỷ lệ hạnh phúc. Nhưng mặc dù quý vị có di truyền cái nếp nhăn đau khổ thay vì là “gen” cười vui vẻ, quý vị không phải được sinh ra vào cuộc đời của kẻ cùng khổ. Đừng vội đính ghép những hy vọng này vào yếu tố khách quan thuận lợi khác như sức khỏe, tiền của, học vấn và ngoại hình đẹp. Chúng chỉ mang đến chút ít hạnh phúc hơn những cái mà những kẻ ít được ban ân cảm thấy. Trừ phi quý vị nghèo mạc hay bệnh liệt giường, các hoàn cảnh trong đời tính được 10 % hạnh phúc thôi. Bốn mươi phần trăm khác sẽ tùy thuộc vào cái điều gì quý vị làm được cho chính bản thân để làm chính quý vị tự cảm thấy hạnh phúc.
   Đó là điều then chốt. Đa số chúng ta cho rằng những điều khách quan như một căn nhà to lớn, một nghề nghiệp tốt hơn, việc trúng số sẽ làm cuộc đời của chúng ta tươi sáng hơn. Trong khi chúng chỉ mang lại một sự sáng sủa tạm thời, cái niềm vui sướng đó rồi sẽ mờ phai đi thôi.
“Sau 18 năm nghiên cứu hạnh phúc, tôi rơi vào một cái bẩy như những kẻ khác.” tiến sĩ tâm lý học Sonja Lyubomirsky, tác giả của cuốn sách: “Hạnh phúc thế nào.” Một tiến trình khoa học để có được một cuộc đời như quý vị muốn.
“Tôi đã quá phấn chấn khi có một xe hybrid mới mà tôi hằng mong muốn nhiều năm nay. Nhưng chỉ có sau 2 tháng, niềm vui đó trở nên bình thường.”
Hạnh phúc giống như việc giảm cân. Chúng ta đều biết làm sao để giảm đi vài cân trọng lượng nhưng điều then chốt là việc làm sao duy trì được cái số cân ấy.    
Trong cuộc nghiên cứu của họ, Lyubomirsky và các đồng nghiệp đã tìm ra cái chìa khóa của việc hưởng niền hoan lạc ấy. Đó là việc nhận ra cái chân giá trị của những niềm vui ngắn ngủi đó, đối với những “cây cột lớn chống đở” mà Seligman gọi là niềm “hạnh phúc có chủ”, mối quan hệ với gia đình, công việc làm hoặc niềm đam mê theo đuổi một mục tiêu nào đó và việc tìm ra ý nghĩa từ vài mục tiêu cao cả hơn.
“Các phương thức khác nhau là tương thích hơn với những người khác nhau.” Lyubomirsky giải thích,
“Chuyện làm việc thiện hàng ngày có vẻ là chuyện ngu ngơ đối với nhiều người nhưng việc viết ra những bức thư  cảm tạ có thể rất có ý nghĩa.”
  “Việc lập lại và mức độ cũng có tác dụng nữa.” Bà ta nhận thấy việc làm 5 điều tử tế mỗi ngày góp phần gia tăng sức khỏe, trong khi làm những điều tốt đó trong những ngày khác nhau thì không. Bà ta nhấn mạnh rằng,
“Để cảm nhận được hạnh phúc, quý vị phải có những nổ lực và tạo được những thành tựu hàng ngày đến hết cuộc đời của quý vị.”
 Nói chung, theo những thí nghiệm, thời kỳ của sự thỏa mản lâu dài to tác hơn đã vẽ ra đường biến thiên của hạnh phúc trong suốt cuộc đời. Sau thời kỳ niên thiếu vui thú nhất, niềm hạnh phúc thường là suy giảm trong tuổi cập kê và trong suốt những năm đầu của tuổi 20, tuy thế, ngạc nhiên thay, khi chúng ta lớn tuổi hơn, niềm hạnh phúc lại tăng lên theo.
“Những người trẻ có xu hướng chú ý nhiều tới những kẻ xấu, điều xấu.” tiến sĩ tâm lý thần kinh Stacey Wood của ĐH Scripps ở California giải thích,
“Khi chúng ta già hơn, chúng ta biết điều chỉnh và vượt qua cái thái độ này.”
  Thật ra vài chuyên gia nói hạnh phúc có vẻ tăng lên thậm chí trong tuổi già.
“Những người có tuổi không phản ứng một cách căng thẳng với những sự kiện trong đời và họ cho biết có ít những phản ứng tâm lý tiêu cực nhưng nhiều phản ứng tích cực hơn.” Tiến sĩ Wood đã phát biểu như vậy.
Không phải ai cũng đồng ý như thế đâu. Nora Ephron, tác giả của cuốn sách “Tôi cảm thấy nỗi đau.” nói rằng sau một lứa tuổi nhất định nào đó quý vị có xu hướng nhận thức rằng cuộc đời ngắn ngũi trong những quyết định, “Quý vị cố gắng loại trừ những người và vật những gì không làm quý vị hạnh phúc (như những bửa ăn không ngon miệng chẳng hạn).”
Ephron nói, “Nhưng dĩ nhiên tất cả những điều này đặt dưới một nỗi buồn nhất định nào đó  bởi vì đây là thời lúc khi người ta bắt đầu bị bệnh và điều này tuyệt nhiên cắt giảm mức độ hạnh phúc.”
 “Bất chấp tuổi tác hoặc tính cách, quý vị có thể hạnh phúc hơn ngay trong lúc này,” tiến sĩ Will Fleeson của ĐH Wake Forest ở Bắc Carolina công bố thế. Ông ta nói rằng ông vừa tìm ra một chiến lược “khai quả chắc chắn” để đẩy mạnh cái tinh thần này lên,
“Hảy làm cái gì đó đi, dẩu cho chút ít thôi, có bỏ ra sức lực, sự mạo hiểm, tính khẳng quyết hoặc đơn giản. Khi những người tình nguyện viên thu lại các cảm nhận của họ trong suốt một ngày, tất cả họ cảm thấy hạnh phúc hơn khi họ tích cực và có bị liên đới vào một việc gì đó.”
  “Điều ngạc nhiên lớn nhất trong cuộc khảo sát này là quý vị có thể thay đổi thái độ hành vi và làm cho chính quý vị hạnh phúc hơn một cách dể dàng và ổn định.” Fleeson cũng đã nhận ra rằng hầu hết các hành vi tích cực- thậm chí như hát, nhảy đầm theo nhạc từ radio, có một tác động tích cực lên tâm trạng.
“Cười ra tiếng đúng chính xác là việc làm có tính chủ động tích cực hoặc đơn giản nhưng nó khiến quý vị cảm thấy hạnh phúc hơn.”
Như lời của bài hát cổ xưa đề nghị, cái việc đơn giản là đóng giả một bộ mặt vui vẻ có thể tạo ra một khác biệt đấy. Trong những thí nghiệm tại Đ.H Clark ở Massachusettes, nhà tâm lý học, tiến sĩ James Laird đã nối các tình nguyện viên với các cực điện giả tạo, và châm chọc họ với những gương mặt nhân tạo có cơ mặt căng thẳng hoặc thư thái, theo tác động, họ mỉm cười mà không do một lý do gì cả. Đa số các tình nguyện viên đánh giá là các hoạt hình với mép miệng cong lên, tạo ra các góc độ, là vui tếu hơn so với các gương mặt hoạt hình nhăn nhúm hai chân mày lại hoặc có nết nhăn trên gương mặt.
   Trong những thí nghiệm khác, những cá nhân nào thường mỉm cười hơn, gợi nhớ nhiều về kỷ niệm thì hạnh phúc hơn những kẻ có vần trán nhăn nhúm hoặc có thể hiện chung chung. Bất cứ khi nào chúng ta cười, những dây thần kinh, những cơ rất có thể chuyển các tín hiệu “bật lên” các trung tâm hạnh phúc trong bộ óc. Laird đã tuyên đoán rằng,“Điều kết luận thì rằng là một cái mỉm cười chẳng tốn gì hết cả và hổng chừng lại còn tạo ra điều tốt đẹp. Thế tại sao ta lại không cười hết cở đi chứ?!
   Thế nhưng không phải mọi người được đánh giá tùy vào mức suy nghĩ tích cực. Theo tiến sĩ tâm lý học, Barbara Held tại Đ.H Bowdoin ở Maine, đối với ai trên thế giới này có quan điểm “ly nước chỉ cạn mới phân nửa thôi”, thì tất cả bài nói về hạnh phúc này có thể là vô bổ, tầm phào. Trong cuốn sách “Ngưng việc mỉm cười! Start Kvetching” Held tăng cuộc chiến chống lại “thái độ tích cực quá mức”, cái chuyện đóng giả bộ mặt hạnh phúc, theo bà Held, chiếm đại đa số trong các nền văn hóa phổ thông. Không phải bất cứ ai đang có cuộc đời bất hạnh lại có thể tạo ra vẻ lạc quan tươi tỉnh trên gương mặt của họ được, bà Held nói, nhưng mà không phải mọi người ai cũng nên làm như thế.
“Nếu quý vị cố ép người ta đối phó theo những cách thức không thích hợp với họ. Nó có thể gây hại đấy.”
  Cho nên nếu quý vị sắp trải qua một giai đoạn khó khăn, đừng cảm thấy dở vì việc cảm thấy tệ hại đó. “Khi ai đó đau khổ vì mất việc, rơi vào đoạn cuối của một cuộc tình hoặc là đau khổ vì cái chết của một người thân, thì việc bảo với họ rằng, “Cứ lạc quan hơn lên và nhìn vào phía tươi sáng của sự việc đi.” là chuyện cộng thêm sự sĩ nhục đau khổ vào họ và rồi chỉ để gây tổn thương họ thêm mà thôi.”
Bà Held nói, một ai đấy hiện cảm thấy tệ hại vì không có sống hiệu quả hơn, nhưng lại có thể vượt hơn mọi sự việc khó khăn khác đấy. Thay vào đó, việc thảo luận những cảm giác tiêu cực với một người bạn, cái điều mà bà Held gọi là “sự trách móc có tính sáng tạo, có thể là cây kim làm thông khí huyết. Thông điệp của bà ta là, “Con đường dẩn đến sự hài mản tùy thuộc vào việc ta tìm ra cái cách phù hợp nhất với chúng ta, dẩu cho điều này có nghĩa là việc bộc lộ song song hai thái độ, tức giận và đau buồn.”
Sức mạnh của nụ cười mỉm:     
   Bất kể cái vị trí thất lợi tự nhiên nào của quý vị, không khó để tìm ra lý do để mỉm cười. Xem xét nó từ góc cạnh kinh tế hay xã hội, chúng ta hiện hưởng một tài sản lớn hơn, sức khỏe tốt hơn và sự thoải mái nhiều hơn bất cứ ai từng sống đến ngày nay. Phần thưởng cho một cái nhìn lạc quan là rất hữu hiệu. Gretchen Rubin tin rằng cuộc truy tìm hạnh phúc vừa hòa nhập thêm ý nghĩa trong cuộc đời của bà.
“Tôi nhận ra rằng do chuyện làm việc vất vả để giử một giọng nhẹ hơn, do việc dùng một ít thời giờ để chơi đùa vu vơ, để cười đùa nhiều hơn, để ca hát mỗi buổi sáng, tôi đã sắp xếp đem đến nhiều thay đổi sâu sa trong cái bản ngả của chính tôi- nhiều sự yêu thương, những hoạt động và những cảm xúc có ý tưởng,” bà ta nói, “Đó là tại sao hạnh phúc lại là một nhiệm vụ.”
“Khi tôi nổ lực làm những bước đi tới cái điều khiến tôi hạnh phúc hơn, tôi có khả năng tốt hơn nhiều để làm những người khác hạnh phúc hơn nữa.”   
Mười cách để được hạnh phúc:
1.    Tiếp xúc thực tế.
Nếu có điều gì để phân biệt những người hạnh phúc này với những người hạnh phúc khác một cách vui vẻ, thì đó là chất lượng của những mối quan hệ xã hội của họ, theo tiến sĩ tâm lý học Todd Kashdan của ĐH George Mason, Virginia. Nếu quý vị suốt ngày chỉ ngồi trước máy vi tính, đứng lên và tiếp xúc với mọi người đi nào. Ngay cả việc dành thời gian cho những người xa lạ cũng làm quý vị cảm thấy khỏe lên. Trong rạp chiếu phim, cùng với nhiều người khác, quý vị cười đả hơn, sướng hơn là cười một mình khi xem T.V ở nhà.
2.    Chúng ta đánh giá ai?
Việc kê danh sách những chuyện quý vị mang ơn có vẻ như tầm phào, nhưng người ta chứng minh là có ý nghĩa đấy. Các chuyên gia nói rằng việc đếm xem có bao nhiêu lời chúc lành, cầu nguyện có thể là điều đơn giản hữu ích nhất quý vị có thể làm được để cảm thấy hạnh phúc. 
3.    Cộng thêm vào.
Nghĩ đến mỗi trải nghiệm tích cực như là việc giữ yên một giọt nước đọng trên một đoạn dây và xem xem những giọt nước khác được đọng thêm lên dây như thế nào. Điều này khiến quý vị thậm chí chú tâm hơn vào những điều nhỏ nhặt giống như việc được người lái xe vẫy tay ra hiệu cho quý vị băng qua đường hay được một email của một người bạn từ hộp thư đầy nhóc thư rác vậy.
4.    Đừng nghĩ đến vật chất.
Nếu quý vị phải chọn hoặc một xe mới hoặc một kỳ nghỉ của gia đình ư? Thu xếp hành lý lên đường đi. Sau một thời gian, chiếc xe sẽ trở nên thông thường, còn những kỷ niệm của một thời điểm nào đó với người thân sẽ kéo dài mãi.
5.    Điều gì buồn cười?
Martin Seligman nói, “Vui tếu giống như muối trên miếng thịt vậy. Nó làm mặn mọi thứ.”Xem các chương trình tấu hài ưa thích. Cố gắng cười những chuyện tếu lâm ngộ nghỉnh trong đời sống. Và cười to lên khi đọc những chuyện cười của tạp chí Reader’s digest.  
6.    Thoát ra vùng bị stress.
Nghĩ đến một nơi mà quý vị luôn cảm thấy yên tỉnh hạnh phúc. Rồi khi quý vị bị căng thẳng hay khổ sỡ, trong tâm tưởng, hảy nhớ đến nơi ấy. Đón ánh mặt trời, Ngửi mùi nắng. Lắng nghe tiếng biển. Mở cái băng video này lên trong tâm khãm khi tinh thần của quý vị bị suy sụp. 
7.    Nhìn ly nước còn “đầy phân nửa.”
Cố nghĩ đến mặt tích cực, sáng sủa. Quý vị có thể nghĩ rằng cuộc đời này luôn luôn trở nên tệ hơn, nhưng thôi đi! Suy nghĩ lại một cách trung thực, quý vị sẽ thấy rằng đời này cũng khá tốt đấy chứ. Và nếu có những điều thật sự chống lại quý vị, Xem điều thứ 8 sau đây. 
8.    Tìm kiếm tính nghệ sĩ bên trong người của quý vị.
Suy nghĩ lại những khi quý vị đã có những biểu hiện có tính sáng tạo. Quý vị đã có chơi trong ban nhạc Rock không, đã làm thơ, biết sửa xe chút ít gì không? Nhớ là cố gắng liên lụy đến chuyện gì đó nhiều nỗi quên đi cả thì giờ. Dùng thời gian cho những chuyện có tính vui thú.  
9.    Làm việc thiện.
Những chuyện giúp đở tử tế, dẩu cho nhỏ nhặt, cũng là niềm vui cho cả người nhận và người cho. Một bức thư thật, kể cho người vừa giúp quý vị xong rằng chuyện đó có ý nghĩa thế nào đến quý vị, là một cách chắc chắn để quý vị vui lên.
Việc dành thời gian hay tiền bạc để giúp ai cũng có ý nghĩa tương đương nhau.
10.Nắm bắt cái khoảng khắc ấy.
Thay vì chờ đợi để tổ chức kỷ niệm một sự kiện lớn, tại sao ta không làm ngay hôm nay? Làm một cái bánh kem, đưa ai đó đi ăn trưa. Mua chai đánh bóng móng tay. Yêu đương ngay trong buổi trưa. Tới luôn! Hạnh phúc nhiều hơn lên.
                                                                               Sydney Agu 30, 2104
                                                                                                  Lương Ngọc Thành

                                                            (Lược dich bài “The way to happiness- Dianne Hales- Reader’s digest)

TĂM TỐI

    Genard ngồi yên trong phòng ngủ và nhìn ngắm các tờ giấy dán tường. Mọi thứ khác không có điểm gì lạ đáng để hắn quan tâm tới, tấm thảm cũ kỹ, cái tủ nhỏ nằm ngay bên giường ngủ cũng ngả màu xám xịt. Hắn thấy rất lạ. Vợ chồng hắn ngủ trong căn phòng này gần suốt cuộc đời hôn nhân của họ vậy mà hắn không nhớ nỗi những bức tường, các màu sắc ấy, hoa văn, họa tiết trên đó trông như thế nào.
  Trước đó hắn bị mù lòa. Giờ hắn vừa nhìn thấy lại được rồi. Hắn gượng đứng lên một mình, định thần một vài phút và rồi bước chậm chạm đến bức tường. Đưa bàn tay phải lên một cách chậm chạp, hắn chạm tay vào những tờ giấy dán và các bông hoa nhỏ màu đỏ và những lá xanh trên đó. Màu sắc cũ kĩ và các đường nét được in trên ấy rất sắc xảo, hấp dẩn, giờ nay đã nhạt phai. Sáng hôm nay, gả mù này vừa có lại thị lực.
Vừa trước khi đó hắn mở mắt ra. Đấy! ánh sáng, cái thứ ánh sáng mà thông thường ai cũng có thể nhìn thấy được, mà 5 năm trước đó hắn bị nhỡ mất, bị tước đi mất. Trước hết, cái ánh sáng đó nhòe nhạt, lung linh và rất quyến rủ riêng đối với hắn và những người cùng cảnh ngộ. Rồi hắn nhận ra các cái bóng khuất và rồi không bao lâu sau, mọi thứ trở nên sắc xảo, sáng tỏ, rỏ ràng. Và thế nên hắn chỉ ngồi đấy và ngắm nhìn mọi thứ chung quanh hắn. Vợ con hắn bật khóc khi nghe hắn nói chuyện. Với thằng con trai, vừa vuốt vai con, hắn vừa nói,
“Con mới vừa cao lên đấy, cao như cây sậy vậy. Thật tốt được lại nhìn thấy con, và nụ cười của con.”
Thật không dễ dàng gì với hắn khi nói chuyện với người vợ, đang vân vê cái áo len nàng đan còn dở dang.
“Lena này, trông em vẫn thế, y như thế.”
Hắn đưa mu bàn tay trái lên chùi hai hàng nước mắt sắp ráo khô trên hai gò má hơi lõm vào, tạo một cái nhìn tiều tụy. Nó là lời nói dối đó chứ nhưng hắn cứ tiếp tục nói đi nói lại như vậy vài lần. Nó giúp hắn che giấu những cảm xúc khi hắn nhìn ra gương mặt già nua ốm yếu của nàng. Lena từ xưa đến nay, chưa khi nào trông thấy đẹp cả nhưng nụ cười nồng hậu khiến cho nàng cũng khá dể nhìn. Giờ đây cái vất vả của việc chăm sóc người chồng mù lòa bộc lộ trên gương mặt nàng. Nàng trông thấy phờ phạt, mệt mỏi. Genard bất ngờ cảm thấy như thể có một điều gì đó thúc giục hắn nhảy bổ ra ngoài kia để làm điều gì đấy nhằm đền đáp lại những năm tháng khó khăn vất vả của vợ con hắn. Sau một lúc, người vợ và thằng con trai rời đi để hắn một mình yên nghỉ. Họ còn phải tiếp tục những việc riêng tư đang bị bỏ dỡ một cách bất ngờ. Hắn ngồi đó hồi tưởng lại chuyện xưa, những nỗi buồn và vài niềm vui hiếm hoi đan xen vào. Mọi thứ bây giờ có thể khác rồi vì hiện hắn nhìn thấy lại được.
  Buổi trưa, Genard hắn thấy trong người hơi mệt. Hắn nghỉ ngơi khi nhìn những tờ giấy dán tường. Hắn tự hỏi liệu hắn có thể bắt đầu làm lại ở cái nơi mà trước kia hắn phải bỏ dỡ dang không nữa. Chỉ kiếm đủ cho chi phí đồng áng, trả dần những khoản nợ nần, họ đã không có đủ tiền. Vợ hắn đã tính đến chuyện bán đi cái nông trại này nhưng giờ chuyện đó không còn cần thiết nữa bởi vì hắn có thể làm việc lại được rồi. Với sự giúp sức của thằng con trai vừa vào tuổi trưởng thành siêng năng ngoan ngoản, họ sẽ giữ lại cái nông trại này. Trong đầu hắn trỗi lên những ý tưởng. Hắn nghĩ đến tương lai. Ý định làm việc lại bắt đầu kích thích hắn. Cuối cùng hắn thấy đủ gan dạ đi ra ngoài. Hắn tự hỏi những thay đổi gì đã đang xảy ra ngay ngoài kia.
Lena cảm thấy lo sợ cho hắn,
“Cẩn thận đấy anh!” nàng nói nhỏ với chồng.
“Bác sĩ nói anh chỉ nên nghỉ ngơi và yên lặng thôi mà.”
“Ồ, anh không sao đâu mà.” Genard trả lời vợ rồi một mình chậm chạp bước ra khỏi căn nhà.
   Trước hết ánh sáng ban ngày làm đau mắt hắn. Hắn nhắm lại vài phút. Rồi hắn chậm chạp mở mắt ra rồi bắt bắt đầu bước đi chậm chạp từng bước ngắn về phía dòng sông. Khi đến nơi, thấy một cây sồi, thân bị đổ ngã, hắn nhẹ nhàng ngồi xuống đó và nhìn ngắm mọi thứ xung quanh hắn trong yên lặng. Hắn nhìn thấy cánh đồng của hắn. Hắn hiểu có bao nhiêu công việc đã được vợ con hắn làm. Hắn bắt đầu lập những kế hoạch làm việc.
   Đó là một buổi chiều cuối tháng tư. Trời vẫn còn xe lạnh nhưng Genard cứ ngồi đấy và ngắm nhìn, tính toán. Hắn thấy giòng sông bị sạt lỡ, bùn lầy. Hắn thấy những ngọn đồi màu tím vương lên cao cao. Hắn thấy những cây sồi, hiện bị hoa dại màu trắng bao trùm, bây giờ lớn hơn trước đây nằm dọc theo giòng sông. Hắn ngắm nhìn những con chim đen bay xà xuống cánh đồng. Trước đây hắn đã không nhận ra rằng tất cả chúng rất dể thương. Genard có một thôi thúc ra đồng làm việc ngay lập tức nhưng cảm giác đó lại nhanh chóng qua đi. Hắn cảm thấy yên bình. Hắn ta thưởng thức cái hạnh phúc đơn giản của việc được nhìn thấy. Không còn điều gì có thể ngăn cản hắn được nữa cả, hắn nghĩ như vậy. Hắn rồi sẽ xây dựng một trang trại xanh tốt trên miếng đất của hắn. Genard lại sắp xếp các ý tưởng trong đầu hắn. Trong khi bị mù lòa, các ý tưởng của hắn cũng như bị mù lòa theo luôn. Hắn ngắm nhìn hai bàn tay của hắn, mềm mại, trắng trẻo yếu ớt. Hắn sẽ dạy chúng, bắt chúng làm việc lại.
   Genard đứng lên và bắt đầu bước đi về phía căn nhà nhỏ của gia đình hắn do chính hắn tự xây dựng nên sau khi họ cưới nhau. Mỉm cười một mình hắn nhớ lại nhiều chi tiết chánh. Trong đầu bây giờ, các ý tưởng đã rỏ ràng và hắn có các kế hoạch cụ thể. Hắn muốn nói chuyện ấy cho vợ con hắn nghe. Rồi hắn muốn cảm thấy được tự do, điều mà hắn trước đó đã thiếu thốn, mất mát rất nhiều. Hắn bắt đầu vừa đi vừa chạy, tự mỉm cười và nói thầm một cách vui vẻ. Hắn quá phấn kích đến đổi hắn có thể tự di chuyển rất nhanh. Thật là tuyệt vời khi được bước đi trên đôi chân của chính mình! Hắn suýt chút nữa giẫm đạp lên một con ếch đang nhảy tới ở giửa hai chân hắn.
“Tránh đường ra nào, Ếch!” hắn kêu lên và cười thật to. Hắn cười với bầu trời, với các cây cối và ai có thể nghe được hắn hay có muốn nghe và với cả cái thế giới này.
   Thế rồi đột nhiên hắn nhận ra một thay đổi. Một bức màng màu xám chậm chạp buông xuống bao trùm giòng sông và cả cái thung lủng. Hắn đứng bất động mở trừng trừng hai mắt. Bức màng tiếp tục buông rơi xuống, bây giờ trùm các cây sồi cho đến khi chúng chỉ còn lại các cái bóng đỗ. Genard nhắm nghiền hai mắt, đưa tay lên bụm mặt lại. Hắn hy vọng, hy vọng. Nhưng khi hắn mở mắt ra, nó vẫn tối đen. Màng sương mù tối vẫn còn đấy. Đó chính là cái điều đã xãy ra 5 năm trước đây, ngày kinh hoàng nhất trong cuộc đời hắn. Một nông dân chất phát, làm lụng vất vả. Hắn đang phải phun xịt một loại thuốc diệt sâu bọ trên mảnh đất không được mầu mở lắm của hắn khai khẩn. Khi bật cái nắp chai thuốc, hắn cảm thấy một cơn đau xé tròng mắt. Cố dụi hai mắt, vô tình hắn làm cho vết lấm kem đi thêm tệ hại. Hơn nửa ngày nằm chịu đau đớn, hắn mới được một người hàng xóm tốt bụng từ dưới thung lủng lên để chở hắn trên lưng ngựa đến một dưỡng đường cách đấy 5 giờ khi trời khô ráo.
    Hắn nhớ lại thật rỏ ràng. Một phút đầu hắn có thể nhìn thấy được. Cái phút giây kế đó cái lớp sương mù đen đủi ấy che phủ hết tất cả ánh sáng. Hắn thấy sương mù trở nên dầy đặc hơn lên. Những ngọn đồi xanh tím bị che khuất trước. Kế đến các cây sồi, các hoa trắng nhỏ và rồi Genard nhận ra rằng miếng đất và căn nhà cũng biến mất luôn vào bóng tối. Một nỗi lo sợ khủng khiếp trổi lên trong lòng hắn. Hắn vung tay đấm mạnh vào khoảng không, cố gắng đẩy lùi bóng tối ra xa. Hắn kêu van,
“Ôi, xin đừng! Đừng như thế nữa mà…”
Hắn đấm hai tay vào nhau trong một sự giận dữ bất lực và vô vọng. Bóng tối trở nên dầy đặc hơn nữa. Hắn gào lên,
“Ngưng lại. Ngưng lại. Đừng khiến tôi phải chịu đựng hơn nữa mà! Cho tôi một cơ hội đi! Kéo cái bóng tối đó lại đi…”
    Hắn vương hai tay lên trời và van xin. Nhưng!..Chậm rải, nặng nề, cái tăm tối đó cứ tăng lên. Hắn có thể tiếng réo rắt của giòng sông chảy nhẹ nhàng êm ả, nhưng hắn không còn có thể nhìn thấy nó nữa. Hắn bắt đầu chạy để bỏ lại bóng tối ra phía sau. Khi chạy, hắn đụng vào một cái cây. Hắn đứng lên và chạy tiếp. Hắn không có cảm giác đau đớn mà tất cả hắn nhận thấy chỉ là cái cảm giác ớn lạnh khủng khiếp.
    Bất thình lình, hắn ngưng chạy. Đưa hai tay ra, hắn chạm vào cái cây sần xùi. Hắn vươn hai cánh tay ra để ôm quanh thân cây và bắt đầu cười vang. Hắn cười rất lớn và rất lâu. Hắn nghĩ rằng hắn quả là một thằng ngốc nghếch tội nghiệp. Chẳng có điều gì để lo sợ cả. Đó chỉ là bóng đêm. Trời luôn luôn tối về ban đêm. Trong 5 năm tăm tối mù lòa hắn đã quên mất rằng vào tháng tư trời luôn luôn mau tối.
  Genard ngồi xuống một gốc cây, mệt mỏi vì cười nhiều, chờ đến khi kể cho vợ con nghe. Chắc họ sẽ cười hắn mất thôi. Dĩ nhiên hắn không thể bị mù lại được. Không thể có chuyện như vậy hai lần trong một đời người. Hắn tựa đầu ra sau để dựa lên cây và mỉm cười một lần nữa.
   Ánh chiều tà chiếu rọi ánh đỏ lên những giọt nước mắt đang tuôn xuống trên gó má của hắn.
                                                                                                                Sydney Agu 25, 14
                                                                                                                                               Lương Ngọc Thành


Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2014

MỘT TỐI GHÉ THĂM


   
   Càng nhiều lần Long Kh’mer và Khuê Bầu ghé thăm tôi tại trường Đ.H ở Thủ Đức, thì càng ít lần tôi ghé thăm Hậu Bào tại Cái Vồn, Bình Minh- Vĩnh Long.
   Sau ngày 30 tháng 4, trong nhóm Bụi Gia Trang, Băng Cần Thơ lên B’lao học, nó và tôi có hai thứ duy nhất. Tôi là kẻ duy nhất còn học tiếp đại học và nó và đứa duy nhất về quê làm ruộng. Dẩu sống trong nơi xa xôi khó đến đó, Hậu Bào đôi khi cũng có bằng hữu đến thăm như thể hắn đang ở bất cứ một nơi bình thường nào đó ở Cần Thơ vậy. Đang ở nội trú, thời khóa biểu dầy đặc, thường xuyên đá banh, tôi là người khó đi thăm nó nhất. Hơn thế nữa, 3 tuần nghỉ hè và 8 ngày nghỉ tết, người ta về quê còn tôi thì lên Bảo Lộc. Lắm lúc tôi đi lên Bảo Lộc một ngày khi có 3 ngày nghỉ học thi học kỳ.
   Tôi cần Bảo Lộc như một người già yếu cần dưỡng khí, như một kẻ bệnh tâm thần cần một nơi để an dưỡng. Tôi muốn đi Bảo Lộc bất cứ lúc nào giống như người ta muốn được xuất viện, người lính muốn nghỉ phép, một kẻ ngồi tù muốn được về thăm gia đình. Tôi đi lên Bảo Lộc như bất kỳ ai khác sống xa sứ đi về quê nhà. Tôi mong muốn lên Bảo Lộc như những người ở hải ngoại mong về quê hương.
   May thay, Hậu Bào không cô đơn như tôi. Sống chung với một mẹ già và người chị dâu góa bụa có ba đứa cháu nhỏ, nó còn có nhiều chàng nông dân trẻ thích nó. Họ thích đá banh, uống cà phê bàn luận chuyện ruộng nương, nghe nó kể chuyện và dĩ nhiên là việc nhậu nhẹt với nó. Họ quý nó vì nó có chữ nghĩa, có những trải nghiệm và có thể vì cái chất “Bảo Lộc” đã thấm nhập sâu đậm trong người của nó nữa. Có bà con bên nội rất đông vì ba nó là trưởng nam, nó phải lo tổ chức, hay đi dự rất nhiều đám tiệc, giỗ chạp. Làm hội trưởng nông dân ấp, nó phải đi họp, đi tiệc tùng của các hội viên. Làm một chàng trai từng trải, dáng vóc hấp dẩn, ăn nói chậm rỏ chững chạc, nó có một vài người phụ nữ lở thì, đàn bà góa bụa đem lòng yêu thương nó cho nên nó có thể đến với họ bất cứ lúc nào nó muốn. Làm một thầy “giáo làng”, nó có nhiều phụ huynh kính quý nó. Có thằng em trai và một chị khá giả thường rước mẹ nó qua Cần Thơ, nó có nhiều chuyến đi qua Cần Thơ để rước mẹ nó về. So với tôi, nó có hơn nhiều thứ, chỉ trừ một điều- còn ngồi trong lớp học.
   Trong một buổi xế chiều còn nắng nóng, bất ngờ biết có được một ngày nghỉ lễ, tôi quyết định đi thăm nó. Xuống xe bên dốc cầu Cái Vồn Nhỏ lúc trời đã tối mịt, tôi cứ vội vả đi nhanh vào. Khỏang hơn 3 cây số với khỏang 36 cây cầu nhỏ tôi mới đến được nhà nó. May cho tôi, có hai khách bộ hành chia cho tôi chút ánh sáng từ cây đuốc họ cầm trên tay khi qua vài cây cầu nhỏ gập ghềnh.
“Anh hai đi đâu“dìa chể” quá” dậy?”
Tôi phải cố gắng nói dối,
“Có công chuyện gấp lắm.”
Người đi song hành tỏ vẻ thông cảm với tôi,
“Chừng nào “dìa” tới nhà tui rồi, chờ tui kiếm cho anh một cây đuốc khác nhen.”
Cây đuốc là một bó lá dừa khô được cột chặt. Khi muốn cho nó sáng thêm hơn, người cầm đuốc quơ quơ hai ba lượt. Được chỉ bảo như vậy, tôi cảm thấy yên tâm hơn khi một mình đi trong bóng tối đen như mực. Vừa cố đi nhanh, tôi vừa nhẫm đếm và cố nhớ số cây cầu tôi vừa đi qua.
Nhờ ánh lửa, tôi nhận ra cổng vào và tránh vấp phải hàng đá xanh dắt vào nhà. Giống như căn ba gian to lớn mái ngói trên nền cao, nhà thừa tự, căn nhà của nhỏ mái tole cũ, được dựng tạm sau ngày 30 tháng 4, của gia đình nó tối thui. Tôi gọi tên nó thảng thốt,
“Hậu ơi. Hậu ơi. Thành Xì nè.”
Một chốc sau, có tiếng trả lời yếu ớt của ai đó,
“Thành hả! ra nhà sau đẩy cửa vô đi con.”
Tay cầm cây đèn dầu phọng khói tỏa đen thui, tay lần theo cái vách lá, tôi tìm được cửa hông. Từ trong cái buồng nhỏ, má nó bước ra,
“Sao đi đâu mà giờ này mới tới? Cơm nước gì chưa con?”
Tôi chào bà và đáp ngay,
“Xế chiều con mới lên xe lận. Kẹt phà Mỹ Thuận quá lâu nữa đó Bác.”
Đặt cây đèn trên cái bàn gỗ mục nát vài chổ, bác Ba gái rung rung lắc tay,
“Bây thiệt khổ quá. Chắc đói bụng lắm phải hông?”
Nghe xong, tôi không còn thấy mệt một chút nào nữa cả. Vịn cánh tay tôi, bà già chỉ về hướng cái bếp có ba cái “lò cà ràng”,
“Con bưng nồi cơm qua đây, có chén mắm chưng ở trong đó đó. Gọt mấy trái chuối chát ra ăn đở nghen Thành. Thắng Hậu với mấy đứa nữa ra ruộng đặt lợp tự sập tối đến giờ.”
Đang bụng đói cồn cào, tôi lẹ làng làm theo lời bác ba gái và một mình “nhập tiệc” ngay sau khi bà trở vào trong buồng nghỉ.
Tôi như đang ở ngay trong nhà của chính mình. Lần đầu tiên theo nó về đây 10 năm trước, bác Ba giới thiệu tôi là, “bạn học của thằng Hậu.”. Nhưng ngay từ lần thứ hai, tôi nghe rỏ lời bác nói với mọi người trong cái xã này,
“Thằng này là cháu tôi.”
Bà nội thương tôi như thằng cháu cưng. Có vài lần bà bảo tôi,
“Ưng bụng đứa nào, muốn làm con rể của ai con cứ nói. Bà nội đứng ra lo hết cho.”
    Cơm trắng tinh dẻo mềm lúc đó như thể là mì spaghetty của dân Ý và chén mắm kho còn sót lại trong nồi đó như cả một cái lẩu hải sản. Trái chuối chát như một miếng bắp cải Kim chi. Tôi ăn ngấu nghiến đến phát nghẹn đến mấy lần. Bình trà không còn chút hơi ấm khi đó ngon như một ly bia Đức lạnh teo. Cái đèn dầu phộng, trên bàn tròn tròn siêu vẹo, như thể một đèn kiểu được décor độc đáo trong một nhà hàng sang trọng. Một mình một bàn tiệc, tôi vừa ăn vừa suy nghĩ,
“Hạnh phúc đôi khi thật đơn giản, thật nhỏ nhoi. Ta hưởng cái ta đang cần. Ta tự cảm thấy đủ.”
Đêm ở thôn quê thật vắng lặng. Tôi không nghe thấy gì khác ngoài tiếng côn trùng, tiếng chó sủa từ rất xa vọng lại. Cái bếp lờ mờ ẩn hiện trong khu nhà lá phía sau này. Nó như muốn gợi lên cái nơi tôi muốn được chung sống với mẹ tôi. Gian nhà lá dừa, các cây cột tràm nhỏ khẳng khiu, cái chỏng che ọp ẹp, cánh cửa xiêu vẹo là tất cả những thứ tôi đang mơ đến.
  « Có ai trong nhà kìa ! »
Tiếng của thằng Hậu rắn rõi.
«Ai trong nhà vậy ? »
Cố gắng nín thinh, lua hết những hột cơm còn xót trong chén, vừa đặt nó xuống bàn, tôi nghe tiếng reo lên của thằng Sáu Lát,
« Ủa, Thành Xì ! »  
   Tối hôm ấy, nhà thằng Hậu như có một tiệc lớn. Hàng xóm chung quanh nghe có tiếng đàn hát, tiếng cười vang của 3 đứa tôi cùng với 5 thằng bạn khác, sau đó một đổi đã đến với chúng tôi. Dù nghèo khó, ít chữ nghĩa, với tay lấm chân bùn, quần áo nhiễm phèn vàng như nghệ, họ có trong lòng những thứ mà tôi quý mến, cái trong sạch, tinh khiết, thật thà chất phác và đôn hậu cái thứ mà tôi ít thấy trong những người khác.

                                                                 Rạch Giá  14- 10- 2012
                                                                                    Ngọc Thành