Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012

PHƯỚC MỌI

      Ai từng đá banh trong trường đều phải nể Phước Mọi, TL 73, và ai từng chơi với Long Kh’mer đều phải biết cái tay có cái tên rất “độc”, có cái tướng đi nghênh ngang và có gốc tích ở Hà Tiên này- nhưng ít ai biết cái quãng đời độc đáo của hắn.
       Tôi tình cờ là thầy dạy của thằng cháu ruột của Phước Mọi kẻ đã thắc mắc ngay hôm đầu tiên đến học khi nhìn thấy cái bảng tên trường NLS Bảo Lộc tôi treo trên tường ngay trên kệ sách. Hắn báo ngay cho chú út về cái tên ông thầy Lương Ngọc Thành, NLS Bảo Lộc.
Trên điện thoại, Phước Mọi vào đề trực khởi liền,
“Ông học ở lớp nào vậy?”
Tôi cũng lẹ miệng đáp ngay,
“Lớp của Tâm Dê- bida Mỹ Khanh- Trọng Cọp đó, biết không?”
Thế là hắn biết ngay tôi là ai. Phước Mọi và tôi đã chính thức gặp nhau tháng 10 năm 1995 tại nhà tôi sau khi hắn gọi điện hẹn giờ gặp. Mang đến chai Johny Walker, chờ tôi đi dạy về lúc 9 giờ, chúng tôi lai rai hàn huyên trò chuyện về nhiều thứ nhưng xoay quanh hai nhân vật chánh Long Kh’mer và Liên Hải Cẩu cho đến nửa đêm. Nghe kể hắn sắp mở một tiệm phở, tôi phát thảo chữ phở “tàu bay” theo ý của hắn rồi làm cho hắn một cái sign bằng mica. Cũng học Thủy Lâm như tôi, hắn hoan hỉ đóng thùng mang về Úc cái hộp đèn tôi đã làm với một dự tính làm giàu bằng nghề bán phở. Cứ khoản hai năm Phước Mọi về thăm quê hương hay về bất ngờ vì những dịp đặc biệt. Hắn là một đọc giả thường xuyên của tôi trên nlsbaoloc.com. Có vài lần tôi nghe điện thoại của Phước Mọi từ Úc. Có lần hắn gọi tôi từ Cần Thơ trong khi qua thăm Khuê Bầu- trưởng lớp. Thỉnh thoảng hai đàng gặp nhau, 2 lần tại nhà tôi, 1 lần tại nhà Đăng Thúy và mới đây- sáng sớm ngày 1- 9-2011, tôi một mình với cây guitar đeo trên vai, chạy Vespa Piaggio cũ đến Hà Tiên để đối ẩm với hắn. Để hiểu biết thêm về 2 nhân vật mà cả hai chúng tôi quan tâm, để giải bày tâm sự, và nhất là để hiểu thêm lẩn nhau, tại bải biển “Mũi Nai” lộng gió từ 10:30 giờ sáng, rồi về nhà cho đến 10:30 giờ tối, 2 đứa tôi đã uống cạn 8 chai Volka khổ nhỏ, đã tọng 5- 6 loại ốc sò và “mồi bén”- đồ hải sản tươi sống.
     Mồ côi mẹ từ năm lên 7 tuổi, Phước Mọi- em trai út- theo ông anh hai Lâm Văn Rầm về Bảo Lộc sau khi ảnh lập gia đình năm 1966. Anh hai Rầm thoạt đầu là lính tiểu khu và chị dâu- Thy Bảo- nhân viên của tòa hành chánh B’Lao. Hai năm sau, khi anh chị hai có đứa con đầu lòng, Phước Mọi- chú Út- chịu nhiều vất vả với thằng cháu đích tôn của ba nó. Sau một thời gian Anh Hai Rầm biệt phái về Tân Phát làm Hiệu Trưởng trường tiểu học Thiện Lập. Không bao lâu sau đó, trường phát triển thành trường trung học đệ nhất cấp Thiện Lập- với 2 lớp đệ thất, đệ lục có học các môn Nông Lâm Súc năm học 68- 69. Phước Mọi theo anh hai để là một trong những học sinh ở đó trước khi trở thành học trò NLS Bảo Lộc- TL 73. Như một vài huynh đệ tài hoa trong trường mình, Phước Mọi có hai cái tài- đá banh và chơi bida. Hơn tôi- kẻ học lóm, Phước Mọi là người đi học đàn guitar của thầy Phi một cách chuyên cần. Y ta từng chơi thành thục nhiều bài trong quyển Carruli. Như cái cách được đặt tên tục của mọi đồng môn khác, có lẻ màu da đen khá đặc trưng của Phước Mọi khiến y có một nick name độc nhất vô nhị ấy.
    Long Kh’mer, với tư cách là huynh trưởng hướng đạo, đã đích thân đến tận nhà trọ của Liên Hải Cẩu để thăm nàng. Căn nhà của Bác Tố đó có 4 mỹ nữ ở trọ- Thanh Thủy, Thế Thạnh, “Võ sĩ” Cúc và Liên Hải Cẩu. Đành rằng nói là để dạy cho Liên đánh semaphore và đánh morse, Long Kh’mer còn thầm muốn một điều gì nữa cơ. Nó bấn loạn thế nào mà lần đầu ra về, hắn để quên lại cây cờ và lần thứ hai hắn để quên cả đôi giày. Với bao nhiêu ưu ái, bao nhiêu điều muốn dành cho Liên Hải Cẩu như thế, nên sau khi tình cờ vừa nghe nhắc đến cái tên Phước Mọi, “đàn anh” Long Kh’mer liền nổi cơn thịnh nộ. Long Kh’mer sai Bình Bon đi tìm gặp Phước Mọi để hẹn ngày giờ “song đấu” để xem ai hơn ai. Cái dũng khí, cái tính cách của Phước Mọi được Long Kh’mer kết ngay. Họ kết tình bằng hữu sau một chầu cà phê sau một lúc chuyện trò. Phước Mọi được Long Kh’mer mời về nhà. Dỡ bức tranh đang treo trên vách nhà, Long Kh’mer tặng ngay cho Phước Mọi cái “kiệt tác” ấy của nó. Phước Mọi đã kinh ngạc và quý vô cùng cái món quà có cái tiêu đề “Ơn cha nghĩa mẹ” đó của Long Kh’mer, cái bức tranh mà tôi cũng còn nhớ và rất muốn sao chép lại cho đến ngày hôm nay. Trước ngày vượt biên, tháng 7 năm 1978, Phước Mọi ân cần dặn những anh chị ở lại gìn giữ bức tranh ấy một cách cẩn trọng. Tình bè bạn đã khiến Phước Mọi rất mong muốn rồi đã hứa đưa Long Kh’mer đi vượt biên cùng một chuyến với hắn. Quỳnh -vợ Long- rất cảm kích tấm thạnh tình đó của Phước Mọi. Tôi thường nghe Quỳnh nhắc tên vị “ân nhân bất thành” này trong những cái hè năm 76- 77 khi tôi lên tá túc nhà Má Chánh trên Bảo Lộc.  
    Bám trường, bám niềm hy vọng cho đến ngày 26 tháng 3- 1974, ngày cuối cùng để “chạy”, Phước Mọi mới chịu rời Bảo Lộc. Y theo đoàn người di tản xuống Phan Rang rồi Cam Ranh và bay đến Nha Trang trong khi có anh hai Rầm ra đó. Ngày 10 tháng 4, hắn chen nhau lên tàu Hải Quân từ Nha Trang về Sài Gòn. Hắn phải cởi bỏ sợi dây chuyền đang đeo để đổi lấy một phần lương khô và nước uống từ một tay sĩ quan. Gặp ông già đang ở Sài Gòn, Phước Mọi quên ngay bút nghiên, bóng đá và  mọi thứ khác để xuống tàu đi đánh cá với người cha già- vừa hết lòng thương vợ thương con vừa yêu nghề đi biển. Chỉ có mấy ngày sau giải phóng, Phước Mọi trở thành một ngư phủ. Một hôm, tàu đánh cá của Phước Mọi gặp một tàu vượt biên từ Mỹ Tho với 80 thuyền nhân. Xuất phát từ ngày 1 tháng 5, bị hư máy nặng, vị thuyền trưởng- một thiếu tá- cầu cứu. Y xin mua lại dầu, nước uống, gạo và cá của tàu Phước Mọi nhưng rồi y và vài tay sai hung tợn đã dùng vũ lực uy hiếp ông già lái tàu đi Thái Lan. Vừa đến Patthaya- bên bờ biển phía Đông của vịnh Thái Lan, dù được một gia đình Mỹ bảo lảnh ngay nhưng Phước Mọi từ chối ngay. Tàu bị neo tại cảng Chon Buri cho đến tháng 8- 1975- ngày mà tất cả thuyền nhân được tiếp nhận, Phước Mọi, anh thứ Bảy và ông già lái tàu trở về Việt Nam. Sau khi bị giam giử 3 tháng để hỏi cung, Phước Mọi chia tay anh Bảy và người cha đáng kính để trở lên Bảo Lộc. Đầu năm 76 Phước Mọi về NLS Bảo Lộc đi học lại.
    Trong lòng trống trải, bạn bè cũ tan tác mỗi đứa mỗi ngả, ê ẩm vì cái thực tế vừa mới trải nghiệm, cái thiện cái ác lẩn lộn, cái hiểu biết và cái ngu dốt đan xen nhau, Phước Mọi không thể vui học như trước nữa. Dẫu còn nhớ hoài cảnh dành nhau từng miếng ăn, cái tồi tàn của một vài kẻ trí thức lừa gạt nhau để có một chút nước uống hay cái cách người ta sẳn sàng giết nhau để có một chổ lên tàu, hắn đã cố học xong trung học. Hắn phải cùng với học trò bên tỉnh- trường Lê Lợi cũ- thi tú tài. Chẳng biết phải làm gì nữa, Phước Mọi trở lại quê nhà. Ở Hà Tiên, dù có nhiều tình thương yêu chăm sóc của anh chị em, không biết làm gì nữa, hắn đã ra khơi và đến Úc.
     Đúng là dân Thủy Lâm, giống như tôi, hắn có bá nghệ. Bà xã hắn quý thương chồng. Khi được giới thiệu tôi là “đàn anh”, phu nhân của Phước Mọi đã chào tôi một cách nhả nhặn lịch sự. Hắn kể với tôi rằng hắn- giống như biết bao Việt Kiều khác- đã nhiều năm vất vả với nhiều nghề khác nhau ở Melbourn. Hắn được sự giúp đở của gia đình và thương quý của hai đứa con trai- một hiện là dược sĩ. Dù mập phệ ra như một tay tài phiệt, Phước Mọi vẫn có phong thái trẻ trung, nhanh nhẹn, vẫn còn nhớ rất nhiều điều, hát những bản tình ca, chơi các khúc classic từng tập thời còn đi học. Gặp được y quả là một điều may mắn. Tôi đã “phỏng vấn” hắn, ghi ghi chép chép như một tay phóng viên. Hắn nheo mắt, gợi nhớ và kể lể. Bốc cây guitar lên, hắn hát một khúc. Đàn một đoạn, hắn tâm tình,
“Ở bển làm sao được như vầy. Bên Úc mà, như ông biết rồi đó, trống trơn như sa mạc. Thôi! Vô đi, Thành Xì!”
     Ngoài việc về tảo mộ cha mẹ, thăm viếng gia đình các anh chị, giống như bất cứ Việt Kiều nào đã từng học ở NLS Bảo Lộc, điều làm hắn phấn kích, khoái chí nhất là những gì có liên quan đến trường cũ, bạn học, những kỹ niệm và nhất là mặt đối mặt, ly cụng ly, câu hỏi câu đáp, tiếng hát tiếng đàn. Phải vậy không Phước Mọi?
                                              Thanh Luong

MÓN QUÀ BỊ TRÁO

Tôi đã từng rất nghèo khó nhưng có kẻ nào đó, đã đang làm trong Hải Quan phi trường Tân Sơn Nhất, vì nghèo khó hơn tôi, đã phải đánh tráo cuốn tự điển, giá trị 5 bảng Anh- một món quà tặng của đài BBC cho tôi sau khi họ chọn đọc truyện của tôi “Quyển tự điển cho con.”
     Vào khoảng tháng 9 năm 1985, với bằng đại học, làm giám sát công trường, tôi có một mức lương thấp kỷ lục- 50 đồng/ tháng- tương đương 25 gói thuốc lá đen hạng bét. Được vào làm một công ty bất kỳ nào đó là một thử thách, có thể tính bằng hàng chục chầu nhậu nhẹt, hàng chục lần thăm viếng với ngần ấy quà cáp. Tôi được mời gọi đi làm sau khi được chính họ - Sở Lâm Nghiệp Kiên Giang- đãi một tiệc lớn- sau khi tôi giúp họ đoạt giải vô địch tỉnh năm đó. Họ rất vui mừng khi nhận ra rằng tôi có bằng “Tú tài Lâm Nghiệp” từ trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc và bằng Đại học chính quy. Họ đã không màng đến việc tôi trước đó bị một công ty sa thải vì một chuyện tế nhị. Họ cũng đã không ngờ rằng khi tôi nhận lời chụp cho họ hai trận đá quan trọng đó, tôi đã đang nấu rượu lậu với gia đình bên vợ.
  Tôi được nhận vào làm cho Công Ty Lâm Sản, trong một công trường xây dựng 4 xưởng cưa, vỉ kèo bằng gỗ, 15x60 mét. Tôi dành nhiều thì giờ để đọc tài liệu vì tôi mong sao tôi không mắc sai phạm chuyên môn và học được một nghề phụ, nghề xây dựng. Không có một khoảng thu nhập gì thêm, tôi cảm thấy bế tắc. Một hôm tôi phải ứng tiền để mua một món đồ cho công trình. Tôi mượn một khoản tiền ít ỏi để mua một cái radio nhỏ. Từ đấy hằng đêm tôi nghe đài BBC để mong mở mang tầm nhìn ra bên ngoài, học được ít tiếng Anh và tôi bắt được một tin vui.
     “Chúng tôi mở mục truyện ngắn từ Việt Nam, từ các ngòi viết không chuyên và được gởi từ Việt Nam. Đặc biệt chúng tôi không để tâm đến chính kiến của người viết. Tác giả có truyện được chọn đọc, sẽ được chúng tôi gởi tặng một quyển tự điển Oxford.”
BBC công bố hằng đêm khoảng suốt một tháng. Hai vợ chồng tôi vui như trẻ sắp được quà. Chúng tôi bàn thảo một kế hoạch. Là thư ký đánh máy, cô ấy lén đánh từng trang từ bài viết tay của tôi. Là người chưa từng viết bao giờ, tôi bỏ rất nhiều thì giờ cho câu chuyện “đầu tay” ấy, dựa theo chuyện đứa cháu nhà nghèo nhưng hiếu học Anh Văn. Tôi viết về việc nó không có được một cuốn tự điển như e rằng cho con của chúng tôi sau này. Suốt 2 tuần công phu, người viết, kẻ đánh máy, chúng tôi hoàn tất phần đầu của cái giấc mơ nhận được quyển tự điển- đơn sơ, tội nghiệp. Tôi thầm nghĩ sau này thằng bé sẽ rất tự hào về cái món quà độc đáo đó. Tôi do dự cho đến khi nghe chuyện đầu tiên “Cái áo len” của một tác giả ở Đà Lạt. Vét tiền dành dụm, chúng tôi cố gởi bức thư tới đài BBC, bên trong có 4 trang giấy đánh máy. Bức thư có chứa một cái tình thương thân, thương con, thương cho cái nghèo khó nhưng hy vọng “được đền bù xứng đáng”.
     Tôi không hề nghĩ đến trị giá bằng tiền- 5 bảng Anh mà tôi luôn nghĩ đến cái giá trị tinh thần, cái giá trị nhân bản, cái giá trị của luật nhân quả. Thứ bảy hàng tuần, lúc 10:30 tối, tôi hồi hộp mong đợi tin vui. Và cái gì đến đã đến. Đêm hôm 27-7-1985, tôi nghe BBC công bố danh sách các chuyện sắp được đọc. Cái tiêu đề, cái cụm từ “ Quyển tự điển cho con” nghe họ đọc vừa ngọt ngào nhưng lại như một cơn lốc mạnh. Nó như bốc tôi lên cao, xoay tôi trên không trung và ném tôi xuống một cái ao đầm tăm tối với nước tanh tưởi, đen ngòm. Tôi sung sướng như một sinh viên vừa nghe tên mình được xướng lên trong ngày tốt nghiệp. Không giống như Archimedes đã kêu lên: “eureka”- “I have found it”- trần truồng chạy trên đường phố sau khi phám phá ra định luật nâng của nước, tôi đã phải nín câm, đôi khi còn lo sợ bị công an hỏi tội. Ngày tôi sẽ nhận được quyển tự điển của đài BBC có lẽ là ngày đáng ghi nhớ suốt đời tôi và nó chắc phải là món quà ý nghĩa nhất mà một người cha có thể tạo ra cho con của ông ta. 
      Hằng đêm thứ bảy chúng tôi hồi hộp nghe đọc các truyện với một niềm vui khôn tả. Và trong cái nhà lá nhỏ, dột nát tồi tàn ấy, tôi ấp ủ một giấc mơ. Nó đơn giản như cái giấc mơ lúc học xong ở Bảo Lộc về Trảng Bom học kiểm lâm của tôi trước đó 14 năm. Tôi mơ có một nghề phụ, mơ có một căn nhà nhỏ -như cái căn tôi đang ở nhờ đây vậy. Tôi mơ sẽ có một đứa con. Tôi mơ con tôi học giỏi- như tôi đã từng mơ hồi ở Bảo Lộc. Tôi mơ làm một người cha có trách nhiệm- người cha mà tôi đã và đang không có. Tôi mơ đến ngày trao tay cho con tôi cuốn tự điển “BBC” và bảo với nó rằng,
“Nếu ba tạo ra được cuốn tự điển này, con sẽ tạo ra hàng ngàn cuốn như thế, phải không con?”
     Giống như Carpenters hát bài Mr. Postman, ngày nào tôi cũng trông chờ ông phát thư- giống như thời đi học trên Bảo Lộc. Người phát thư đã không đến vì tôi mượn địa chỉ bên gia đình vợ tôi. Một ngày cuối năm, 24 tết năm đó, thằng cháu vợ hớn hở đạp xe đến với bịch quà từ đài BBC. Tôi ôm ghì nó và lì xì cho nó một ít tiền rồi hí hửng mở quà ra. Ngoài bìa phong bì to có ghi rỏ mọi thứ tôi hằng mong đợi. Nhưng bên trong, cùng kích thước ấy là một quyển sách cũ bằng tiếng Đức. Cái món quà của BBC, cái quyển tự điển tôi hằng mong đợi ấy đã bị đánh tráo.
Kẻ nào đó trong Hải Quan Tân Sơn Nhất, vì đã quá tham, quá thiếu tiền, đã cố tình đánh tráo quyển tự điển đó khi mà Bưu Điện tỉnh chính thức công nhận là họ đã nhận từ Sài Gòn về nguyên vẹn như thế.
      Tôi đã viết thư cho BBC hai lần để thỉnh cầu một quyển khác hoặc nhận được cái phiên bản truyện ngắn đó nhưng đã không nhận được hồi âm. Tôi e ngại rằng con tôi sẽ không tin vào chuyện này. Tôi e rằng tôi sẽ có thể làm vẫn đục cái niềm tin mà nó đặt vào tôi. Đánh mất niềm tin của một người, có thể được ví như đánh mất một cánh tay. Việc làm ai thất vọng có thể được xem như việc gây một vết thương trên thân thể họ. Tôi không trách kẻ đánh tráo cái quyển tự điển ấy nhiều bằng cái việc “đánh tráo tình người”.

      “Quyển tự điển cho con.” kể về một thằng học trò nhỏ, lớp 8, mồ côi cha. Là một công nhân bình thường, mẹ của thằng bé không lo được cho nó sách hay, vở tốt chứ nói gì đến quyển tự điển. Hằng ngày cậu bé chăm lo học và được chọn vào lớp chuyên Anh Văn. Được sắp hạng nhì trong lớp chuyên Anh, vì thằng bé thua hẳn người hạng nhất vể từ vựng. Xin mẹ một quyển tự điển chưa được, thằng bé phải mượn của mấy đứa bạn học trong lớp và thức khuya để tra từ vựng trong các đọc khó. Một đêm, mẹ con đều phải thức khuya để học. Thằng bé ngủ gục trên bàn học trong lúc mẹ nó đang chăm chú đọc một bài khó hiểu dài dòng. Chợt mẹ nó nghe tiếng con mình,”Má cố tìm mua cho một quyển tự điển nghe mẹ, nghe mẹ…” Bà mẹ bật khóc và đến trước bàn thờ của người chồng quá cố để đốt một nén nhang và để tâm tình. Bất ngờ người mẹ nó nhớ lại cái đồng hồ đo điện kế- cái công cụ mà ông ta đã từng rất cần, rất yêu quý. Mẹ đem nó đi bán và đã mua được một quyển tự điển cho con. Thằng bé thật vui khi nhận món quà và nó cảm động hơn nhiều khi đọc dòng chữ mẹ nó nắn nót viết trên trang đầu tiên,” Tặng con yêu của mẹ. Không có từ nào trong quyển tự điển này có thể giải thích được tình yêu của mẹ đâu con ạ!”
  Tôi quyết định giử gìn nó cho đến ngày hôm nay. Đến nay, câu chuyện xảy ra được 27 năm. Tôi thường tự hỏi, “Có ai muốn xem quyển tự điển bị đánh tráo đó không nhỉ?!”
  Tôi cứ xem đấy như một món đồ có giá trị, thật đấy!
                                   Thành Lương

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

MỘT TỐI SINH NHẬT

Đến sinh nhật nàng, vừa là đồng nghiệp vừa là học trò của tôi, tôi rất ái ngại vì được đón tiếp quá chu đáo, vì không nhìn thấy có ai khác và nhất là lần đầu tiên tôi dự một tiệc sinh nhật.
   Phải cố gắng lắm tôi mới lấy lại được phần nào bình tỉnh khi Thúy Hằng mời tôi ngồi trên ghế sô pha rồi nàng vội lấy cho tôi một khăn lạnh và một ly chanh Rhum đã được pha trước. Tiếng nhạc từ máy thu băng magnet cũng đã được chỉnh trước. Sau khi bài nhạc khiêu vủ vừa trổi lên, Hằng tắt bớt đèn. Tôi rùng mình chóang ngợp khi Thúy Hằng tình tứ mỉm cười liếc mắt với tôi:
“Anh uống nước đi. Chính tay em pha cho anh đó.”
Đang khát nước, tôi uống hết gần nửa ly một cách tự nhiên như đang ở một mình.
“Để em rót thêm cho anh nhe.”
Thúy Hằng hớp vào một ngụm nhỏ lấy lệ và hỏi nhỏ cũng để lấy lệ.
Tôi không trả lời nàng vì tôi đang bị một chút say xẩm, lâng lâng.
“Những khách mời của cô Hằng đâu?”
Chỉ ngón tay gần chạm vào ngực tôi, nàng nheo mắt,
“Đây nè. Em anh chỉ mời có anh thôi à.”
Ngheo nguẩy trước mặt tôi, nàng nói giọng nhỏng nhẻo.
“Anh Thành nhảy với em nhe?”
“Cô Hằng đừng chọc tôi nữa mà.”
“Em nói thật mà.”
Thúy Hằng ngồi sát bên tôi, vai trần của nàng chạm vào cánh tay áo sơ mi của tôi. Cái cảm giác nóng ấm, trơn tru làm tôi nổi gai ốc. Cái mùi nước hoa gì gì đó như một loại thuốc mê bay lọt vào mũi tôi.
“Cả nhà phải lo khai trương cái shop mới rồi. Chỉ có anh và em ở nhà thôi.  Em chỉ muốn mỗi mình anh dự sinh nhật đặc biệt này của em thôi. Kìa anh! uống đi anh. Uống với em nè.”
Tôi bổng chốc thành kẻ ngu si dại dột. Tôi khờ khạo như một đứa học trò nhỏ mới học lớp của cô giáo Hằng. Tôi uống hết một ly rượu như người ta hớp một ngụm nước. Tôi không còn là tôi nữa rồi. Tôi đang đánh mất một thứ rất quan trọng, sự tự chủ.
“Anh uống thêm với em nhé.”
Như có một luồn điện chạy xuyên qua khắp cơ thể, chân tay tôi run nhè nhẹ và mặt tôi nóng bừng như thể tôi đang đứng ngoài một bửa nắng trưa hè gay gắt hoặc như đang ngồi trước một lò sưởi rực lửa. Tôi như đang biểu diển bài độc tấu rất khó, như đang hồi hộp chờ cú đá penalty quyết định vậy. 
“Anh chờ em một chút nhen.”
Ngún nguẩy bước vào phía sau cái rèm cửa, sau vài giây, Thúy Hằng mang ra một ổ bánh sinh nhật nhỏ nhưng được trang trí rất đẹp. Tôi không đếm được số đèn cầy và tay tôi rung rẩy không thể bật được một que diêm. Bàn tay nhỏ nhắn của Hằng mau mắn châm lửa 22 ngọn nến với 1 cái que diêm. Bỏ giày cao gót ra, Thúy Hằng đứng lên đóng công tắc đèn của phòng khách. Ánh sáng của các ngọn nến hồng lung linh toả một vùng sáng nhỏ trong cái phòng khách vừa vặn, tươm tất. Ánh sáng ấy dù yếu ớt cũng vừa làm sáng cho cái ý định của nàng nhưng làm tối hơn đi cái đầu non nớt của tôi.
“Anh cùng thổi nến với em nhé.”
Tôi nhận ra tay tôi bị năm ngón tay nhỏ của Thúy Hằng nắm chặt. Khi các ngọn nến vừa được thổi phụt tắt là khi nàng cũng vừa ôm tôi, hơi thở hổn hển phà lên mặt tôi,
“Anh có yêu em không? Anh?”
Trong bóng tối, tôi như chết lặng. Tôi như một bệnh nhân đang bị gây mê, đang nằm yên trên bàn mổ trong khi bác sĩ giải phẩu đứng kế bên theo dỏi. Tôi như một đứa bé bị bắt tận tay đang ăn trộm một thứ gì quý báu. Tôi như kẻ đang lạc vào trong một cánh rừng già, lạnh buốt, tĩnh mịch, như một học trò bị cô giáo hỏi một câu thật khó trả lời, như một kẻ mất trí, rồ dại.
“Em yêu anh lắm. Anh, hôn em đi!”
Bóng tối đồng loả với sự rồ dại. Bóng tối ở trong con người tôi bổng trở nên tối tăm hơn. Chất men rượu Rhum do nàng cố tình pha cho tôi nhiều hơn bình thường nhưng chất men trong người nàng hôm đó cao hơn hẳn bao giờ hết. Nàng phà hơi thở ấm áp lên mặt tôi và đôi môi nàng chạm vào rồi dính chặt môi tôi như có một thứ keo, chậm chạp nhưng rất mạnh.
Tôi chưa hề biết hôn ai và tôi cũng chưa hề đọc tiểu thuyết, cảnh hai người thanh niên tình tự. Tôi, một gã học trò khờ khạo, đang được cô giáo khôn ngoan xinh đẹp dạy phải hôn như thế nào.
   Thúy Hằng, như một chàng trai trẻ hừng hực lửa tình bỏng cháy, đang làm tôi ngây ngất. Nàng kéo lôi tôi vào phòng ngủ của nàng dưới ánh đèn ngủ màu hồng thật quyến rũ. Nàng như thể là một người chồng trẻ mới về nhà sau một vài năm xa người vợ thương yêu. Tôi mềm nhũn như một tên say rượu, mất tự chủ và tệ hại hơn không còn khả năng chống đở. Miếng nệm êm ái nhấn chìm hai đứa tôi trong đó như hai đứa trẻ nhỏ bước lọt vào một cái ao đầy bèo, một vũng bùn rất to.
  Tuổi hai mươi thật đẹp nhưng cũng thật bồng bột tội lỗi. Thúy Hằng có vẻ như chuẩn bị mọi thứ từ trước, mùi nước hoa, quạt máy và tiếng nhạc hoà tấu rất nhỏ. Việc có tôi trên cái giường này, trong vòng tay của nàng dường như cũng đã được nàng chuẩn bị lâu rồi. Tôi như đang bị thôi miên còn nàng đang rất tỉnh táo. Tôi như một ông chồng khờ khạo yếu đuối mặc cho vợ trẻ tung hoành. Tôi không còn làm chủ được bản thân.
   Tôi không còn biết tôi là ai và việc gì tới đã tới ngay đêm hôm đó.

Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012

BÀ MẸ NUÔI- 3

Ngày càng hiểu thấu tình thương của bà, tôi đã gọi bà bằng má và bà đã làm nhiều điều để minh chứng rằng tôi đúng là một người con trong gia đình.
    Ngày qua ngày tôi càng hiểu được cô em ít nói, hơi cộc cằn, rất hiếu học và dỉ nhiên là rất bất đắc chí. Ngày qua ngày chúng tôi thân mật nhiều hơn nhất là sau khi mẹ nuôi của tôi mua một chiếc xe buýt. Đèo cô ta ra bến xe sáng sớm, đưa cô ấy về đến nhà rất trể, giúp cô em chuyện này, kể cho nàng nghe điều nọ, tôi có nhiều cảm xúc nhiều hơn một người anh nuôi. Như Ngọc đôi lần làm tôi xao xuyến khi nàng cho tôi biết nàng cần tôi đến như thế nào, nàng quý mến tôi ra sao. Tôi hoặc phải nói ra lòng mình hoặc phải ém nhẹm tình cảm của tôi với nàng và có lẽ tôi sẽ phải làm một kịch sĩ rất giỏi trong một sân khấu rất thực.
   Hè sau đó, bà mẹ nuôi đưa hai đứa tôi đi Vũng Tàu. Bà có thể vừa vô tình vừa cố ý cho tôi một cơ hội để tôi thật gần với Như Ngọc. Ngoài biển, cạnh bên nhau, tôi bất ngờ đặt tay lên tay của cô em và tỏ tình. Nàng nhìn tôi tha thiết và ánh mắt nàng đã trả lời tôi. Chúng tôi thay phiên hôn nhau suốt trên đường từ Vũng Tàu về. Ngay hôm sau đó tôi thú thật với bà Không ngạc nhiên như tôi đã nghĩ, mẹ nuôi tôi vui vẻ đón nhận cái tin này và bà hoạch định một buổi lễ đính hôn. Bà ôn tồn giải thích,
“Má thương con như con ruột. Đây là lúc má vừa gả chồng cho con gái vừa cưới vợ cho con trai.”
Vì sợ cả nhà ganh tị, chống đối, bà mời ông đi Taxi với hai đứa tôi ra nhà hàng Continental để ăn một tiệc nhỏ- tiệc đính hôn. Ngay sau đó bà trao tôi một sợi dây chuyền to do chính bà tự chọn. Bà bảo tôi đeo vào cho Như Ngọc như là quà đính hôn của tôi.
    Mọi người trong nhà có thái độ nghi ngờ, chống đối bằng nhiều cách khác nhau. Chúng tôi phải đương đầu với nhiều lời đàm tiếu, thành kiến, bài kích. Họ rỉ tai với mẹ nuôi tôi điều này, họ nhỏ to với bà điều khác. Bà, nửa là mẹ nuôi nửa là mẹ vợ, luôn yêu thương, tin tưởng và bảo vệ tôi cho đến một hôm tôi bị người chị thứ Bảy chạm tự ái của tôi, một gả đào mỏ dưới con mắt của y thị.
Tôi đã chào bà và xin bà cho tôi không về nhà một thời gian. Không bao lâu sau đó họ âm thầm nhưng khá quy mô làm một chuyến đi lớn cho cả 200 người tính luôn cả nhà. Trong lúc đang đi thực tập tại Ô Môn Cần Thơ, chờ gần đến ngày họ khởi hành, tôi đánh điện tín cho nàng,
“Chúc mọi chuyện tốt lành.”
Mẹ nuôi tôi viết thư thăm tôi và bà luôn mong tôi được bình an, đỗ đạt. Có lần bà nghẹn lời khi hỏi tôi,
“Nếu tụi nó đi hết thì con làm sao hả Thành?”
Tôi trả lời ngay không suy nghĩ,
“Thì con ở lại đây với ba má.”
Chuyến đi của họ đã không thành nhưng việc học của tôi thì tốt đẹp xuông sẻ. Tôi được giữ lại trường như là một cán bộ thể thao. Ông già vài lần giới thiệu với khách rằng tôi là rễ. Bà vui mừng vì tôi bình tâm trở về với gia đình bà mặc dù Như Ngọc bị shock thêm một lần nữa. Sau khi tôi về Rạch Giá thăm mẹ ruột và được Công ty Vật Tư Tổng Hợp mời về làm và chơi bóng đá cho họ. Bà đã quyết định rất nhanh, quên đi cái ích kỷ của bà mẹ vợ. Bà nghiêm túc khuyên tôi.
“Con nên về RG. Thứ nhất là vì con gần mẹ ruột để báo hiếu. Thứ hai là con gần biển và gần cơ hội thăng tiến. Nếu vì sợ xa Như Ngọc, má bắt nó xuống thăm con.”
   Tôi vâng lời dạy của bà đi về đây tháng 4 năm 1979. Bà luôn giữ lời hứa. Cách 3 tuần bà bảo Như Ngọc xuống RG thăm tôi. Sau khi cô ta quyết định tá túc với tôi một thời gian, tôi bán sữa đậu nành để tạm mưu sinh. Bà viết thư thăm hỏi,
“Cả nhà mình hiện giờ chỉ có hai đứa con là đang tự lo thân được thôi. Má rất mừng vì hai con đang chung sống với nhau hạnh phúc.”
  Bất ngờ nghe tin một chuyến đi, Như Ngọc quyết định chia tay tôi. Một lần nữa cô ta không toại nguyện. Ngán ngẫm cô gái út cứ luôn đòi đi, luôn thay đổi, bà đã xúi tôi,
“Con cứ có con với nó đi. Mọi chuyện để má lo hết cho.”
Tôi nghe theo lời bà nhiều chuyện nhưng tôi đã không làm chuyện đó. Bà không thể tin vào tai khi tôi cho biết tôi còn giữ gìn cô ấy trinh trắng. Trong một chuyến xuống đây thăm tôi, cô ta thản nhiên xúc phạm tôi, vị hôn phu của nàng. Tôi đã viết thư cho cả hai để từ hôn vào tháng 3 năm 1973. Hơn một năm sau tôi lập gia đình.
  Câu chuyện tưởng như tạm dừng ở đấy. Đến tháng 9 năm 1984, hai ông bà được chị Bảy lảnh qua New Zealand để đòan tụ và Như Ngọc đứa con duy nhất còn lại được theo cha mẹ. Mẹ nuôi của tôi sau đó theo các con khác qua Mỹ. Như Ngọc có việc làm và kết hôn với một người rất hiền lành do chính bà lựa chọn.
  Mẹ con tôi từ đó cách xa nhau nửa vòng trái đất nhưng chúng tôi rất đều đặn thư từ qua lại. Bà đã viết trong thư như thể bà là người mẹ ruột,
“Hai con yêu thương của Má. Hôn hai con và hai cháu nội của má.”
“Má luôn cầu Chúa ban phước lành cho hai con và hai cháu của má.”   
Hoặc những dòng sau đây đã khiến tôi nghẹn ngào,
“Má luôn nhớ nhiều điều về con…Biết con đang dạy ở nhà thờ RG, má rất hảnh diện…”
“Được thư con má mừng quá. Má chờ tụi nói về đông đủ rồi đọc thư của con cho tụi nó nghe.”
“Làm sao má hôn con được đây hả Thành…”
    Ông bà không hạnh phúc lắm khi ở chung với thằng con thứ chín độc thân. Ông bị stroke và ra đi vào năm 1995. Bà viết thư báo tin và gửi hình của ông cho tôi. Như Ngọc rước bà về Cali để sống chung với gia đình cô ấy. Bà nhớ ông, nhớ các con khác đang ở xa và nhớ Việt Nam. Như Ngọc đi vắng nhà thường xuyên nên không thể trực tiếp chăm sóc bà.  So với mẹ ruột của tôi bà không hạnh phúc, sung sướng bằng. Trong nỗi buồn, tuổi già bà bị stroke và âm thầm ra đi vào ngày 28 tháng 12 năm 1999.
   Sau khi mẹ ruột tôi được an táng, người ta thấy tôi đặt trên bàn thờ 2 di ảnh song song nhau. Dưới di ảnh của bà mẹ nuôi của là một cái hộp bằng nhôm. Bên trong đó tôi đã xếp cẩn thận tất cả những bức thư đầy lời lẻ yêu thương bà đã viết cho tôi từ bên New Zealand và từ Mỹ.  

BÀ MẸ NUÔI- 2

Buổi sáng chủ nhật kế đó dường như trôi qua rất chậm chạp và tôi không biết phải làm gì.
  Không phải việc tôi đã gặp bà ấy mới khiến cho tôi tin rằng có nhiều nhân đạo trên đời này. Bà là người đầu tiên làm cho tôi ngạc nhiên hạnh phúc rằng tôi được yêu thương được mong đợi. Tôi đón xe buýt lúc khoảng 2:00 để tôi có thể đến nhà bà lúc khoảng 3 khi bà và những người trong nhà đã có  một giấc ngủ trưa và nhờ vậy tôi sẽ được tiếp đón tử tế hơn.
   Tôi đã bị sốc ngay khi nhìn thấy căn nhà ở 20A Hiền Vương (Võ Thị Sáu bây giờ). Tôi thấy tự thương hại tội nghiệp cho bản thân mình và tự hỏi nhiều điều. Nhìn quanh để tìm kiếm điều gì, bất kỳ ai để hỏi về bà để tôi tự tin gỏ cửa hay tôi phải quay về, tôi rất mừng khi có một phụ nữ trẻ đang bước đến nhấn chuông gọi cửa.
Hơi lúng túng, tôi hỏi trổng lốc,
"Dạ có phải đây là nhà của Dì Ba, người thấp lùn không vậy?"
"Ah, đúng rồi. Anh là.."
Câu trả lời bị gián đoạn bởi một giọng nói từ trên một cửa sổ tầng một.
"Thành hả? Cả nhà đang đợi cháu nè, Dì Ba xuống ngay đây."

Tôi nghe tiếng chân vội vả xuống lầu. Vài giây trôi qua và bà tự tay mở cửa. Vui mừng nắm tay tôi, bỏ mặt người khách vừa nhấn chuống, bà nói nhanh,
"Lên đây! lên lầu theo Dì Ba nè".
Đưa tôi vào phòng và bảo tôi ngồi chờ xong bà vội vả trở xuống lầu. Tôi ngồi yên hồi hộp điều gì sẽ xảy ra. Tuy nhiên, tôi đã nghĩ rằng tôi có thể đến, tôi cũng có thể ra đi.
Như Ngọc, con gái út, bước vào với một ly nước chanh. Cố tươi cười tự nhiên, cô ta nói ngay,
“Anh Thành phải không? Má nhắc anh hoài đó.”
Tôi gật đầu nói lí nhí điều gì đó tôi không thể nhớ nỗi. Cô mời tôi uống nước và nói tiếp,
"Má nói …anh chơi guitar hay lắm."
Cô gái càng tự nhiên bao nhiêu, tôi càng rung bấy nhiêu,
"Anh đàn một bản cho em nghe nhen?"
Như bị thôi miên, tôi mất kiểm soát và đàn đọan đầu bài Romance không hay như tôi từng chơi trước đây. Bất ngờ, cô gái vổ tay nhẹ khen tôi nhưng đó là khoảnh khắc bối rối nhất trong đời tôi.
Dì Ba tươi cười khi thấy chúng tôi trò chuyện. Sự hiện diện của tôi làm thay đổi không khí gia đình. Lần lượt tôi gặp anh Tư, chị Bảy, chị Tám, thằng thứ 9, nhỏ hơn tôi một tuổi đang học ĐH Nông Nghiệp và Út Hải. Tôi đã tự hỏi,
"Ta có gì mà được Dì Ba ưu ái, các con của Dì tỏ ra thân thiết với ta thế?"
Mỉm cười thật tươi, dì ba hỏi tôi xem tuần tới tôi có thể về chơi nữa không,
"Có", Ngọc thay mặt cho tôi trả lời.
"Cháu chỉ sợ phải đi đá banh ở đâu đó." Tôi nhẹ nhàng tiếp lời.
Bà phân trần,
“Đá banh xong rồi về. Tụi nó mong gặp cháu nữa nhen, Thành."
Nhờ cái cách mà bà, Như Ngọc và Út Hải tiếp tôi, tôi cảm thấy bớt căng thẳng. Tôi lại về tuần kế đó. Vào tối chủ nhật tháng 4, trời hanh khô, dưới ánh trăng, ngoài balcony, ngồi trên ghế dựa với Như Ngọc cạnh bên, bà bảo tôi đàn những bài tôi yêu thích. Cô em gái thứ mười, Như Ngọc, như một con mèo nhỏ ngoan ngỏan, chăm chú nghe tôi đàn. Như tên tội nhân phải đánh đàn để được ân xá, tôi chơi liên tiếp những bài classic quen thuộc. Gần về khuya, tôi đánh bài Leyenda như muốn xin kết thúc. Như Ngọc nghiêm nghị hỏi tôi,
“Tuần sau anh mang đàn của anh về và dạy em vài bài nhé.”
Tôi như thể vừa có một cơ hội để được mản hạn tù. Ít ra tôi cũng cần cho 2 người trong nhà này để làm cho họ vui lòng và được họ mong đợi tôi về.
   Tôi chỉ nàng các hợp âm của bài “A time for us”. Chúng tôi tập cho đến khuya. Tôi như ở trong một thế giới mới và nàng rỏ ràng có một niềm vui mới. Nhờ tiếng đàn, chúng tôi ngày càng gần nhau. Nhờ Dì Ba và Như Ngọc, tôi có một thứ tôi rất cần, hạnh phúc gia đình, dẫu cho đó là thứ vay mượn mà thật lòng tôi không muốn có và tôi luôn cảm thấy bất an.
   Hằng 3 tuần liên tiếp, tôi quen dần cái nhịp sống, lối sống của gia đình này nhưng tôi không đóan được bao lâu tôi mới có thể nhập cuộc hoặc gần với họ trừ Dì Ba và Như Ngọc ra. Dượng Ba, yếm thế, cô đơn, ít nói nhất nhưng không làm tôi e ngại lắm. Anh cả- còn đang cải tạo- có lẻ đang nghi ngờ tôi. Anh ba, chị tám có vẻ không màng đến sự có mặt của tôi. Tôi thường tự hỏi,
“Hạnh phúc có phải tùy và cái gì ta có, chổ ta ở và đang ở với ai chăng? Hay nó chỉ tùy vào việc ta cảm thấy như thế nào và ta nghĩ đến cái gì?
Tôi thường nghĩ đến Long Kh’mer, nghĩ về sự cô đơn của nó trong chính gia đình của nó. Tôi nhớ Má Chánh, Má Năm và tôi không thể không nghẹn ngào khi nghĩ về mẹ ruột của tôi.
   Vào đầu tháng 5, tôi được nghỉ hè 3 tuần. Như một tên tù được đi phép, tôi xin Dì Ba cho tôi lên Bảo Lộc. Như Ngọc xoe tròn mắt nhìn tôi,
“Có việc gì mà anh không ở lại đây?”  
Tôi ấp úng giải thích,
“Anh lên đấy phụ việc trong một lò nem của Má Chánh.”
Út Hải vội vả vào cuộc,
“Anh Thành ở đây đi. Hai anh em mình đi buôn đồ cổ cho anh Tư.”
Vài người khác trong nhà cũng bận tâm việc tôi vắng mặt ba tuần.
Chị Bảy, đẹp hiền ngoan nhất nhà và thương mẹ nhất nhà, hỏi tôi,
“Có ai làm cho Thành buồn không?”
Rít một hơi thuốc dài, nhún vai, Hòang Anh lên giọng hỏi tôi,
“Thành có chắc ở trên đó được không?”
Dì Ba hiểu tôi như người mẹ ruột,
“Cháu cứ lên đó đi nhưng có gì cháu không hài lòng thì quay về đây. Cả nhà đang mong cháu, nghen Thành.”
    Có vẻ như Dì Ba là người hiểu tôi nhất cho đến lúc ấy.

BÀ MẸ NUÔI

Nếu không phải vì tình yêu của bà mẹ nuôi của tôi, tôi không bao giờ đã có thể trở thành người như tôi bây giờ và nếu không nghe theo lời khuyên của người, có khi tôi không bao giờ sống tại Rạch Giá đến hôm nay như thế này.
     Thật khá dể dàng để được đi cùng với một bạn học này trên một chuyến xe buýt ra Chợ Lớn, nhưng thật khó mà gặp một người bạn học cũ khác trên xe buýt đó khi nó tạm dừng đèn đỏ tại ngả tư Trần Bình Trọng- Trần Hưng Đạo. Điều đó xảy ra với tôi như là trang đầu tiên của một cuốn truyện dài của đời tôi với cái tiêu đề “Bà mẹ nuôi.”
     Nhận ngay ra thằng bạn NLS Bảo Lộc cũ, tôi mừng rở nhoài người ra cửa xe, kêu tên nó thật to,
"Trọng Cọp!"
Đang uống cà phê trên vỉa hè vắng người, nhận ngay ra tôi, Trọng Cọp đáp trả thật nhanh.
  "Thành Xì hả? Xuống xe đi! Xuống mau lên!"
Đang chờ đèn đỏ, tôi thoát xuống xe kịp lúc. Từ giây phút đó, tôi trở nên thoải mái hơn vì tôi có nơi để đến mỗi cuối tuần, hẻm 22 Nguyễn Biểu Q:5, những khi tôi muốn. Tôi hoặc ở có thể ở lại với gia đình nó qua đêm hoặc tôi trở lên trường trong ngày. Ngoài những chuyện bất tận hồi đi học, Trọng Cọp, một cơ thủ, một tay quậy phá, tếu lâm có tiếng trong trường đón tiếp tôi như một khách quý. Cả nhà nó rất vui mỗi khi tôi về chơi. Hai chúng tôi chỉ có một điểm chung duy nhất- xem bóng đá. Chúng tôi đã học 3 năm với nhau cùng một lớp Thủy Lâm trên Bảo Lộc nhưng tâm trạng, tính cách, sở thích và tình cảnh khác nhau. Nó đặc biệt có bà bác họ, Bác Thọ bán xôi ở phố tàu Bảo Lộc, cấp dưỡng chu đáo. Là con trưởng trong một gia đình lao động nhưng khá sung túc ở Sài Gòn, không lọt qua cửa trung học, có nhiều em, chỉ phụ ít việc nhà nơi chất chứa rất nhiều thứ hàng buôn bán, nó rất tù túng buồn chán. Vì vậy, khi có tôi đến, nó vui ra mặt và làm cả nhà rộn rịp hơn lên. Mỗi chủ nhật của tháng 3 năm 1976 sau khi ăn trưa, đi xem bóng đá, nó chở tôi đến trạm xe buýt Sài Gòn- Thủ Đức. Nó dúi vào túi tôi một ít tiền để đi xe và hẹn gặp tôi tuần sau đó.
   Đôi khi tôi xuống thăm ngoại tôi ở Tham Lương, Bà Điểm, trước khi ghé nhà Trọng Cọp. Một lần như vậy, tôi đến nhà của nó một buổi sáng sớm chủ nhật. Tôi không thể nhớ chính xác lý do tại sao nó đã vắng nhà ngày hôm ấy. Đó là lần đầu tiên tôi ra về sớm, thui thủi, buồn bả, một buổi sáng tháng 4 năm 1976. Tôi cũng không hiểu sao tôi lại đến trạm xe đi Biên Hòa thay vì Thủ Đức như bao nhiêu lần trước đó. Lạ lùng thay ngay sau khi tôi lên xe, một bà hành khách trạc hơn tuổi mẹ tôi, đậm người hơn mẹ tôi, vừa chen lên vừa được tôi đở lên ngồi cái ghế còn lại bên cạnh tôi.
Khi xe chúng tôi trên đường Phan Thanh Giản (Đ.B.P), bà bắt đầu một cuộc trò chuyện,
"Cậu đi Biên Hòa hả?"
Tôi đáp rất nhỏ nhẹ,
"Dạ, không, cháu chỉ đi  Thủ Đức thôi."
Người hành khách ngồi cạnh tôi thân mật hơn.
"Tôi cũng đi Thủ Đức nữa."
Bà nhanh chóng đổi cách xưng hô và hỏi tiếp,
"Cháu đang làm gì ở đó?"
Tôi trả lời một cách rất lịch sự. 
"Cháu vẫn còn đi học."
Bà nhẹ nhàng với tôi hơn,
"Thế à? Dì Ba có tới 11 đứa con. Hai đứa còn đi học. Dì rất mong đứa nào cũng còn được đi học. "
Người đàn bà cảm thấy vui mừng như thể bà được nói chuyện với một người thân. Bà nói với tôi sau đó là bà đã cho rằng tôi sẽ là một lính ngụy khi bà thấy tôi đội một berret nỉ màu đen, để ria, mặt mày thiểu não. Bà kể cho tôi nghe rằng bà ấy đến thăm vị phó giám đốc của con trai thứ ba xin cho anh ta tiếp tục đi làm. Đổi lại, tôi kể ra bất cứ điều gì bà đã muốn biết từ chuyện gia đình, học trung học và đang ở ký túc xá như thế nào. Trong khi nói chuyện, tôi thản nhiên đưa cho bà xem cái căn cước của tôi.
   Bất ngờ thay, tôi cũng đã bộc bạch cho bà ấy nghe tôi cảm thấy không hạnh phúc và bất an như thế nào, tôi đã muốn bỏ học như thế nào. Và bất ngờ lại đến với tôi, bà ấy nói với tôi dù rằng bà ấy đã có rất nhiều con và luôn luôn muốn làm con cái hạnh phúc để học giỏi. Vì chỉ đến cái nhà đối diện trường của tôi, bà hứa đến thăm tôi tại ký túc xá của tôi sớm. Tôi đã kể cho tụi bạn cùng phòng những gì vừa xảy ra ngay sau khi tôi bước vào. Tụi nó tất cả đã tò mò muốn xem và điều gì sẽ xảy ra kế tiếp. Tôi nhận ra rằng tôi nhìn đồng hồ rất thường xuyên. Sau đó không lâu, bà xuất hiện tại cửa trường. Tôi cảm thấy xấu hổ, ngại ngần nhưng lâng lâng vui sướng khi  đi cùng với bà ấy hướng về phía ký túc xá của tôi. Đòan Ngọc Liên- CN 71- vừa gặp chúng tôi, vừa chào hỏi ngay,
“Thưa bác!”
Xoay qua tôi nó hỏi luôn,
“Mẹ lên thăm hả Thành Xì?”
Khi thấy tôi ấp úng, bà vội đỡ lời,
“Dì Ba của Thành. Dì ghé vào xem chổ nó ở một chút.”
  Cái thứ đầu tiên bà nhận thấy là cây đàn guitar của tôi treo trên tường. Bà nói ngay rằng người con gái út, Như Ngọc, đã rất thích chơi đàn và đã từng theo thầy Nam Phong học gần hai năm. Tất nhiên, tôi được bà yêu cầu đánh một đọan yêu thích và tôi đã ngoan ngõan vâng lời. Thực sự, tôi đã không có một cảm giác gắn dính giữa hai chúng tôi. Theo tôi đó chỉ là một cuộc gặp gở tình cờ sự trùng hợp nhưng theo lời bà,
“Chúa đã dắt Dì gặp con để thế chổ thằng một con trai đang ở Mỹ.”
     Sau một cuộc thăm viếng ngắn ngủi đó, bà ấy bảo tôi đến gặp bà vào cuối tuần này. Bà ấy bắt tôi nhận một ít tiền đi xe buýt và hứa đi hứa lại rằng tôi sẽ đến. Tiển bà ra tới cổng và cùng ngồi chờ đợi xe buýt, tôi có những cảm xúc khó tả. Tôi nhớ lại trong những vở kịch của Kim Cương trong đó nghệ sĩ Vân Hùng có cách diển tả giống như tôi đã trải qua, một chàng sinh viên năm thứ nhất ở tỉnh đến gặp một người Dì mới quen tại một căn nhà khá bề thế- 20A Hiền Vương (Võ Thị Sáu), Q: 3, Sài Gòn.

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

CHA NUÔI- 15


    Tôi nhận được quyết định làm việc như là một cán bộ thể thao của trường. Nhiều người mừng vui cho tôi trong khi tôi không có cảm nhận gì đặc biệt. Điều đặc biệt nếu có là việc tôi dắt Long Vân về Rạch Giá thăm mẹ tôi.
     Ba tôi có vẻ hơi tươi tỉnh hơn chút ít. Ông sửa soạn ít quà cho tôi đi Rạch Giá. Ông dặn dò Vân gì gì đó tôi không nghe rỏ. Ông giờ đây có bạn, có người ông nhờ cậy. Bà Liễu rất thường đến thăm gia đình tôi. Bà Liễu lo lắng cho Vân như con cháu. Tôi nhắc lại với ba Năm là tôi sẽ về đúng hẹn và tôi sẽ làm điều tôi đã hứa với ba tôi- làm cho Long Vân vui. Tôi bồn chồn lo lắng như một đứa con trai lưu lạc từ phương xa về thăm mẹ. Ba Năm đưa cho tôi một số tiền làm lộ phí và một gói quà cho mẹ tôi. Tôi nghẹn ngào,
“Con về thăm má con xem sao rồi con sẽ liệu cách nào đó để lo cho cả nhà.”
“Con đưa em đi cho nó khuây khoả vài ngày rồi về hai cha con mình tính.”
Ba Năm tiển chúng tôi ở bến xe. Long Vân bịn rịn vì đây là lần đầu tiên em xa nhà. Sau khi bị nạn, Vân đã nghỉ học. Em ở trong nhà suốt ngày. Em có khi khóc suốt đêm. Trông thấy em xanh xao, phờ phạt, ba tôi và tôi đều lo sợ. Ba vuốt tóc em, dặn dò đủ điều như một bà mẹ tiển con về bên nhà chồng,
“Con về dưới quê phải cố giỏi giang, phụ công chuyện nhà. Má của anh Thành ở dưới đó có một mình. Con cố làm sao cho bà thật vui. Cái gì không biết phải hỏi bà nghe con. Con cần gì phải hỏi ý kiến anh con nghe hông? Đi tàu ghe có bị gì, có anh con kế bên. Đi chợ búa phải cẩn thận, xuồng ghe lắc lư dễ té dễ  ngã lắm nghe con. Chỉ ăn uống đồ đun sôi, nấu chín thôi nghe con. Không ghé lại quán tiệm nào hết. Muốn làm việc gì cũng phải xin phép bác gái hoặc anh con trước nghe con.”
Tôi nắm chặt tay ba tôi:
“Có con bên cạnh em suốt ngày mà. Ba đừng lo.”
Để Vân có thể nghỉ ngơi, tôi quyết định ghé lại Cần Thơ. Tôi giới thiệu với gia đình người hàng xóm Vân là người em họ tôi dắt xuống Rạch Giá đi vượt biên. Họ tin lời tôi ngay và tôi và nhờ tôi tìm cho họ vài chổ đi bảo đảm. Tôi mượn chiếc Yamaha của người chủ nhà để đưa Vân đi chơi. Tôi chỉ cho Vân trường tôi học, chợ búa, bến Ninh Kiều. Tôi muốn làm em quên đi cái ồn ào náo nhiệt của Sài Gòn nên tôi ghé lại vườn ổi bải cát, một khu vực vắng vẻ. Hai đứa tôi ngồi yên đón gió mát thổi từ giòng sông Hậu. Em tựa nhẹ vào vai tôi và tôi để yên như vậy khá lâu. Nắm nhẹ bàn tay nhỏ nhắn của Vân, tôi liếc nhìn vào gương mặt hơi gầy guộc của em. Em nhìn xa xăm, lặng thinh. Chúng tôi đang có quá nhiều thứ để lo toan và nhiều điều để nói ra đến nỗi cả hai không nói được gì. Tôi không hề nhắc đến chuyện gì có thể khiến nàng chạnh lòng. Bất ngờ, em ôm eo tôi chặt như sợ có ai vồ lấy tôi. Em áp má vào lưng tôi. Em làm cho ai nấy đều lầm tưởng rằng em là nhân tình nhỏ tuổi của tôi. Chúng tôi đã hưởng được một khoản thời gian bình yên, thanh tịnh nhất từ bé cho đến lúc ấy.
     Sáng hôm sau chúng tôi đi chuyến xe đò sớm nhất. Tôi mừng vì Vân không bị say xe, không khó chịu vì mùi xăng dầu. Em chăm chú nhìn cảnh vật bên đường rồi nhìn tôi. Em làm tôi cảm thấy con đường đi Rạch Giá ngắn lại nhưng con đường đời của chúng tôi thì dài thêm ra gấp đôi.
“Anh à! Anh sẽ nói với má làm sao?”
“Có làm sao đâu?”
“Ý em hỏi là anh giới thiệu với má em là ai.”
“Thì là em của anh chứ còn là ai nữa.”
“Rồi tối em ngủ ở đâu?”
“Em ngủ chung với má nghe?”
“Em phải làm sao?”
“Thì em làm như ở nhà mình vậy đó.”
Tôi ước phải chi Vân là em ruột để em có thể ở lại đó với mẹ tôi phụ giúp bà một thời gian. Tôi ước chi em giỏi nấu nướng, nội trợ. Tôi ước chi tôi đã có đủ thì giờ bên em để tôi dạy em những điều mà ba chúng tôi cần. Tôi tiếc không đưa em đi học may. Tôi trách mình không mua được cho em một máy may. Tôi tội nghiệp cho em không có mẹ dạy dỗ mà những điều các cô gái khác thừa mứa. Tôi thương em như một cô em cùng cha khác mẹ- mồ côi sớm. Mẹ tôi thích mọi việc nhà phải được làm nhanh chóng. Mẹ tôi thích có người kề cận, lắng nghe và người đó phải chìu ý của bà. Tôi biết thật khó tìm một người phụ nữ như vậy để làm vui lòng mẹ tôi. Những người bạn gái của tôi chắc phải tự rút lui khi nghe tôi nói về các tiêu chuẩn đó. Cô Hằng có thể làm được nhiều điều cho tôi nhưng thật khó có điều gì cô ấy có thể làm mẹ tôi hài lòng. Còn Long Vân, cô gái nhỏ tuổi nhưng lớn gan này có thể làm phật lòng mẹ tôi bất cứ lúc nào. Em với vết thương lớn này có thể trở nên ngông cuồng hoặc ngu ngơ bất cứ lúc nào.
Mẹ tôi người đàn bà đến nay chịu quá nhiều bất hạnh, bất công đến nỗi mỗi việc nhỏ nào tôi làm cũng chỉ nhằm khiến cho bà vui mà thôi. Sự hiếu thảo với mẹ- nhất là đối với mẹ tôi- không thể được đo lường bằng bao nhiêu vàng, tiền hay vật chất mà là những điều nhỏ nhặt đơn giản có thể làm cho bà mỉm cười, vui lòng. Tôi sẳn lòng lấy một người phụ nữ tôi không thương yêu nhưng miển sao người đó làm mẹ tôi hài lòng. Tôi sẳn lòng đánh đổi tất cả để đổi lấy sự hài lòng của mẹ tôi. Ai mà hiểu được điều này cũng sẻ dể dàng hiểu ra tại sao tôi có thể làm được những điều tôi đã làm được trên Bảo Lộc. Ai mà hiểu được những nỗi đau đớn của mẹ tôi cũng sẻ dể dàng hiểu được tại sao đến giờ này tôi mới về thăm mẹ. Hôm nay tôi mang về cho bà hai thứ lớn: việc tôi tốt nghiệp đại học và một cô em gái- con của người cha nuôi.
“Má khó không anh? Em không biết phải làm sao cho má vui nữa.”
Câu hỏi của Vân khiến tôi giật mình. Tôi nói nhanh để trấn an  cô em,
“Anh thấy má dể lắm. Nhưng cũng dể giận hờn như những người khác.”
“Em thấy lo quá. Hay là anh kiếm chổ nào cho em ở lại đi. Anh đi thăm má một mình nhe.”
Ba Năm sẽ rất buồn khi tôi phải để em tôi phải làm như vậy. Má tôi sẽ rất tò mò muốn biết cô gái bé nhỏ này là ai. Và hơn thế nữa, em sẽ rất tủi thân khi tôi một mình về thăm mẹ.
“Anh biết là má anh yêu thích có con gái lắm. Anh đoán thế nào má cũng thương em như ba thương anh vậy.”
Nàng đưa mấy ngón tay lên như muốn nhéo tôi,
“Sao anh biết?”
Tôi vội kêu lên ui da, ui da như để phụ diển với cô em gái,
“Thì má cứ hay nói như vậy, cứ ước ao có con gái hoài mà.”
“Em cũng không biết sao nữa.”
“Có gì anh đở cho em hết. Đừng lo lắng gì hết nghen!”
                                                                       (còn tiếp)